Tuổi thơ – trăng và minh triết phương đông

 

 

 

 

Tuổi thơ – trăng và minh triết phương đông

 

 

 

    Thời gian tuôn chảy vô t́nh. Con người mê mải cuốn theo ḍng cho đến khi nh́n lại th́ tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đă mịt mờ trong kỷ niệm.

    Mặt trăng rằm toả rạng c̣n đó nhưng dường như không c̣n là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nh́n trăng mà sợ hăi. Trong mắt chúng luôn đầy ngạc nhiên và hoan hỉ.

    Hi Di tiên sinh đời Tống nổi tiếng sách luận giải Đẩu số nói rằng, mặt trăng tṛn sáng - Thái Âm - liên quan tới Phật, thánh hay nói chung những bậc phi phàm, siêu việt.

    Ước nguyện được nh́n ngắm thêm lần nữa thứ ánh sáng xưa cũ trong hồi ức chỉ có thể cho ta phần nào cảm xúc khi hoà đồng cùng trẻ thơ dưới ánh trăng đêm. Sự hoà đồng không mang theo ân huệ bề trên - ngược lại - là để được nhận phần khi chính ta quả đă “nghèo” đi chẳng biết tự bao giờ... Người lớn - phải chăng? - cũng đồng nghĩa là kẻ đă tiêu phí tuổi thơ và đang khánh kiệt thứ “gia tài nguyên thuỷ” ấy. Tuổi thơ quư giá một đi không trở lại.

    Vâng, dường như chúng ta đă dần trở nên xa lạ hơn so với bao nét dễ thương, đa cảm vốn có hôm nào mà đâu cần ai ban tặng. Thứ của báu tồn tại qua ánh mắt nụ cười, lấp lánh tinh khôi và đầy thiện căn chất phác. Để rồi… Trong hành trang qua lại cơi nhân sinh, ta đánh mất tuổi thơ như một lẽ tất nhiên để dành chỗ cho bao điều phiền tạp.

    Có mâu thuẩn không? Khi vừa thương tiếc những ǵ mất đi kia, mặt khác ta hết sức mong chờ những bé con quanh ḿnh mau tới tuổi thành niên.

    Tuổi thơ dường như chưa bao giờ thôi khát khao, trông ngóng những đêm rằm. Nô đùa, chạy nhảy dưới trăng là nguồn vui bất tận.

    Trăng viên măn là biểu tượng của trí huệ khi đức Phật đưa “ngón tay để chỉ mặt trăng”. Ngài giải khai cho chúng sinh sự nhầm lẫn giữa cứu cánh và phương tiện. Từ đó, đêm là biểu tượng của vô minh và trăng là nguồn tuệ quang hoá giải: Trí huệ. Từ đó, mặt trăng và tuổi thơ là giao thoa đầy vi diệu trong minh triết phương đông.

    Dịu hiền, trong sáng, thanh cao một cách tự nhiên - mặt trăng - dẫu quá xa, kỳ thực thân thiết nào khác thứ của riêng treo sẵn trước sân nhà, ẩn hiện tự tại bên ao nước, bờ tre.

    Đi đến đâu vẫn cứ c̣n - như huệ tánh - người bạn đường trung thành, tịch tịnh đến vô ngôn. Ồ, nhưng mặt trăng cũng chung cho tất cả, không phân biệt ai, ở một nơi nào… B́nh đẳng, đích thực cũng chính là thể hiện đức từ bi theo kinh nghĩa nhà thiền.

    Đôi khi, những suy diễn kiểu người lớn có thể sẽ làm mất đi sự tinh khiết của ánh trăng mầu nhiệm. Hăy lắng nghe đồng dao dưới trăng để thấy rằng tuổi thơ không chấp trú, không vướng mắc một khoa luận-lư-học nào:

    “Ông trăng xuống chơi cây cau, th́ cau sẽ cho mo.

    Ông trăng xuống chơi học tṛ, th́ học tṛ cho bút

    Ông trăng xuống chơi ông Bụt, th́ ông Bụt cho chùa

    Ông trăng xuống chơi nhà vua, th́ nhà vua cho lính

    Ông trăng xuống chơi đền thánh, th́ cụ Chánh cho mơ

    Ông trăng xuống chơi nồi chơ, th́ nồi chơ cho vung

    Ông trăng xuống chơi cành sung, th́ cành sung cho nhựa

    Ông trăng xuống chơi con ngựa, th́ con ngựa cho tàu

    Ông trăng xuống chơi cần câu, th́ cần câu cho lưỡi

    Ông trăng xuống chơi cây bưởi, th́ cây bưởi cho hoa

    Ông trăng xuống chơi vườn cà, th́ vườn cà cho trái

    Ông trăng xuống chơi gái đẹp, th́ gái đẹp cho chồng

    Ông trăng xuống chơi đàn ông, th́ đàn ông cho vợ…”(*)

    Từ h́nh ảnh trọn vẹn, viên măn của trăng rằm ta như thấy được tuổi thơ nơi nào cũng thế dẫu nhân loại có màu da, ngôn ngữ và văn hoá khác nhau. Thể hiện của tuổi thơ muôn ngàn lối song bản chất hồn nhiên không khác.

    Trên trái đất chỉ có một mặt trăng. Chân lư thiên văn ấy - thật đơn giản - cũng là chân lư nhân văn. Vâng, mỗi đời người chỉ có một tuổi thơ.

    “Mặt sáng như trăng rằm” Lời tán dương hảo tướng đức Phật. Khuôn mặt nói lên trí huệ tột cùng, lan toả đức từ bi cộng với nét tĩnh lặng sâu thẳm mà kỳ diệu thay! Vẫn hồn nhiên như thơ trẻ.

    Không biết rơ đích xác từ lúc nào người phương đông bắt đầu trịnh trọng lấy ngày rằm làm mốc trong một chu kỳ để tự tu dưỡng thân tâm. Tiết giảm những việc không lành, kiềm chế nóng giận. Đó cũng là ngày để tâm làm thiện sự, phước duyên… Song  h́nh ảnh an lành, chân thật nhất trong mỗi một ngày rằm vẫn cứ là h́nh ảnh trẻ thơ tung tăng bên áo mẹ lên chùa. Tất cả thiện sự, phước duyên sẽ mất đi ư nghĩa hồn nhiên và trở nên nghi thức, khô khan nếu thiếu vắng trẻ thơ.

    Biết bao thi nhân, danh sĩ tài hoa chuyên lấy cảm hứng từ tửu, nguyệt để trứ tác nay c̣n lưu hậu thế. Trăng của chư vị thường là hoá thân từ mỹ nữ tuyệt vời, hoặc mặc nhiên coi đấy như tri kỷ tối cao để nỗi ḷng được đem ra gửi gắm. Trăng trong thi ca cũng là sắc - nàng thơ - và v́ vậy khó có chỗ cho hồn nhiên và rỗng rang, tịch tịnh.

    Quảng Hàn cung đầy băng giá nên Hằng nga sầu muộn muôn năm, không thấy được nụ cười. Nàng không thể “xuống chơi”. Nàng c̣n phải lắng nghe biết bao thất t́nh lục dục của nhân sinh vang vọng măi dưới đời. Nàng chỉ được ngợi ca suông và thực ra, làm chứng cho thi nhân luận đàm, thưởng rượu đến tàn đêm…

    Trăng với thế giới tuổi thơ - không c̣n là nàng - có thể là ông, là chị thân thương và gần gũi hơn nhiều. Nhất là trăng không c̣n cô đơn lạnh lẽo. Đêm rằm tháng tám với bao nhiêu đèn lồng cùng tiếng bước chân dồn dập chạy theo nhau. Đây đó vang tiếng cười đầy hoan hỉ đợi chờ…

    “Ông trăng xuống chơi” như một mời gọi khẩn thiết, chân thành nhất sẽ được gửi đến vị khách danh dự của tuổi thơ cùng phá cỗ Trung thu. Lời mời ấy cũng là lời hứa rất đẹp mà chủ nhân của trần gian nầy - tuổi thơ - sẽ v́ khách mà đem “cho tất cả”. Vâng, cho chứ không hề nhận lấy…

    Rằm tháng tám ở phương đông ẩn chứa nền minh triết cao sâu và vô cùng nhân bản. Phải chăng? Nếu trăng là thần tiên - Hằng nga - th́ chỉ có tuổi thơ của người dưới trần gian mới giúp nàng t́m lại được nụ cười đă mất. Ở cung Quảng Hàn tuyết phủ căm căm, nàng đă thấy hạnh phúc là đâu khi hiểu rằng - v́ nàng, vị thần tiên lạnh lẽo - tuổi thơ dưới trần gian đă đốt lên rất nhiều ánh lửa.

 

 

------------

   (*)“Ông trăng xuống chơi” – bài đồng dao, Phạm Duy phổ nhạc.

 

    (Thành nội - Huế)

    Trần Hạ Tháp