Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả chị Lai Hồng, phu nhân của hoạ sĩ Võ Đình với bài nghiên cứu về đồng dao, đọc chơi mà học.
Miêng
Trần thị LaiHồng
ĐỒNG DAO
và
TRÒ CHƠI TRẺ CON
Tranh minh họa dân gian của Henry Oger và Võ Đình
Đồng dao, đồng diêu: câu hát chơi, con nít hay hát. Đó là định nghĩa đơn giản nhất của Huình Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, cuốn tự điển đầu tiên của Việt Nam, xuất bản năm 1895 tại Sàigòn.
36 năm sau, Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo Việt Nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản tại Hà Nội năm 1931 và Nhà In Imprimarie Trung Bắc Tân Văn phát hành, cũng định nghĩa ngắn gọn. Đồng dao: câu hát trẻ con. Hơn thế kỷ sau, tức là cả 103 năm sau, Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 1998, định nghĩa đồng dao: lời hát truyền miệng của trẻ con, nhưng không đưa ra một câu nào.
Chơi Chong chóng, tranh Võ Đình, UNICEF 63
Đồng dao được truyền từ đời này tiếp đời nọ, vùng này qua vùng kia, có khi thay đổi, có khi sai lạc, có khi thất truyền, và bị quên lãng. Tác giả hẩu hết vô danh, hay nói đúng hơn, chính dân gian là tác giả.
Dạy con từ thuở lên ba, nhưng từ lúc lọt lòng mẹ qua ba tháng biết lẩy bẩy tháng biết bò cho đến khi lổm ngổm tập ngồi bi bô tập nói lựng chựng bước đi, với Việt Nam ta, tiếp nối lời mẹ ru, đồng dao giữ phần quan trọng trong giáo dục gia đình, chuẩn bị cho trẻ đến trường với khoa sư phạm áp dụng phương pháp giúp trẻ con vừa vui chơi giải trí vừa học hỏi, phát triển các khả năng cơ thể và mở mang trí tuệ. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật.
Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên được phổ biến rộng rãi. Trong hàng trăm bài đồng dao truyền miệng và hàng ngàn bản nhạc, chúng tôi chỉ nêu một số bài đồng dao truyền miệng từ Bắc qua Trung vào Nam, còn nhớ hoặc tìm tòi sưu tầm được, và đồng dao được phổ nhạc, cùng một số nhạc phụ lục. Chuyện bổ túc theo đà tiếp nối rất dễ dàng thuận tiện.
Những trò chơi đầu tiên chỉ có mẹ và con. Khi trẻ bớt ngủ ngày, tức vào khoảng một tháng sau khi ra đời, trẻ bắt đầu biết nghe và nhìn. Bài học đầu tiên có thể chỉ tập cho con theo dõi, nhận xét, ghi nhận. Mẹ chỉ cho con biết những phần trên cơ thể, cả danh từ lẫn động từ tĩnh từ: mắt mở mắt nhắm, mắt đen mắt nâu, miệng nói môi cười, răng trắng, tai nghe, tóc đen tóc trắng, tóc ngắn tóc dài, tay nắm, chân đạp …
Trẻ chưa biết ngổi, có thể cùng mẹ chơi trò Cất Rớ Chống Rớ , đặt con nằm ấp trên hai ống chân mẹ, mông con an vị trên hai bàn chân mẹ, hai tay nắm chặt hai tay con, mẹ nằm ngửa, vừa nâng hai chân lên cao vừa đọc:
Cất rớ lên! Bỏ rớ xuống!
Cá chi? Cá bống! Chống rớ!
Cá chi? Cá rô! Chống rớ!!
Cá chi? Cá hồng! Chống rớ! …
Vẫn vị thế đó, có thể đổi cách chơi qua trò cỡi ngựa, hát mà chơi, nhún nhẩy đong đưa theo bài đồng dao:
Nhong nhong nhong nhong
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ bồ đề
Cho ngựa ông ăn
Nhong nhong nhong nhong …
Chơi Diều, tranh Võ Đình, UNICEF 69
Mẹ tập con chơi mà học, quan sát theo dõi:
Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy…
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này!
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy! …
và cứ thế tiếp tục cho đến mười ngón.
Tay mẹ tay con có nhiều trò thú vị. Hát mà chơi với bài đồng dao Kéo Cưa Lừa Xẻ, khi con biết ngồi, hai mẹ con cùng nắm tay nhau kéo qua kéo lại:
Kéo cưa lừa xẻ/ ông thợ nào khỏe/ về ăn cơm trưa
Ông thợ nào thua/ về bú tí mẹ
hay: Cút ca cút kít/ làm ít ăn nhiều/ nằm đâu ngủ đấy
Nó lấy mất cưa/ lấy gì mà kéo!!!
Vẫn tay mẹ tay con:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Tay nào đẹp/ đi hái hoa
Tay nào thô/ đi mót củi
Tay dính bụi/ đừng dụi mắt …
Cũng bài Xỉa Cá Mè nhưng chơi với hai chân:
Xỉa cá mè/ đè cá chép
Chân nào đẹp/ đi buôn men
Chân nào đen/ ở nhà làm… chó (hay mèo) và sủa gâu gâu như chó hoặc kêu meo meo như mèo để mẹ con cùng vui.
Mẹ con vuốt tay vỗ đập tay nhau nhịp hai theo bài đồng dao Vuốt hột nổ nói đến những vật dụng hàng ngày. Bảo con chắp tay lai, mẹ cũng chắp tay xong mở ra vuốt hai bàn tay con, vừa vuốt vừa đọc, mỗi lần vuốt xong là vỗ tay, và có thể tiếp nối vô tận:
Vuốt hột nổ
Đổ bánh bèo
Xao xác … vạc kêu
Nồi đồng vung méo/ cái kéo thợ may
Cái guộng đắp bờ/ cái cờ làng tế
Cái ghế để trèo/ cái khoèo mót củi
Cái chủi tòe loe/ cái khe nước chảy
Cái xảy xảy rơm/ cái nơm chơm cá
Cái ná bắn chim/ cái kim may áo
Cái gáo múc nước/ cái lược chải đầu
Cái câu câu cá/ cái rá vo gạo …
Mẹ con ngồi đối mặt nhau, mẹ vừa hát vừa tập con vỗ tay. Hát mà học, vì khi lớn lên bé sẽ cùng vui chơi với anh hoặc chị, và cách chơi khó hơn: vừa đọc bài đồng dao vừa tự vỗ tay mình xong vỗ tay trái chéo vào tay trái người kia; trở lại tự vỗ tay, rồi vỗ tay phải mình chéo qua tay phải người kia, và tiếp tục ban đầu chậm sau nhanh dần cho đến hết bài. Một bài đồng dao khác cho trò chơi này là:
Tập tầm vông
Chị lấy chồng/ em ở góa/ chị ăn cá/ em mút xương
Chị nằm giường/ em nằm đất/ chị húp mật/ em liếm ve
Chị ăn chè/ em liếm bát/ chị coi hát/ em vỗ tay
Chị ăn mày/ em xách bị/ chị làm đĩ/ em thâu tiền
Chị đi thuyền/ em đi bộ/ chị kéo gỗ/ em lợp nhà
Chị trồng cà/ em trồng bí/ chị tuổi Tý/ em tuổi Thân
Chị tuổi Dần/ em tuổi Mẹo
Chị kéo kẹo/ em nấu đường/ chị trồng thơm/ em trồng khóm
Chị đi xóm/ em coi nhà/ chị thờ cha/ em nuôi mẹ
Chị trồng hẹ/ em trồng hành/ chị để dành/ em ăn hết
Chị đánh chết/ em la làng/ chị đào hang/ em chui tuốt …
Vẫn trò chơi dùng hai tay nhưng đông người hơn, có thể dùng một cái gậy hay thanh trúc để các em nắm tay chồng lên nhau lần lượt và tiếp tục cho hết bài. Không có gậy thì chỉ cần chồng tay lên nhau. Trò chơi này gọi là Hát Đúm/ Cùm nụm cùm nịu hay Tay tí tay tiên:
Cùm nụm cùm nịu/ tay tí tay tiên
Đồng tiền chiếc đũa/ hột lúa ba bông
Ăn trộm ăn cắp trứng gà
Bù xa bù xít/ con rắn con rít
Thì ra tay này!
Vẫn tay mẹ tay con, khi con biết xử dụng tay chân, mẹ con cùng chơi trò thi chân đẹp hoặc mẹ giúp con theo dõi chơi Nu na Nu nống cùng các anh chị. Ngồi trong lòng mẹ, bé chỉ tập trung theo dõi, chăm chú nghe và nhìn, lanh mắt lẹ tay nhanh chân học mà chơi theo luật chung:
Nu na nu nống/ cái cống nằm trong
Cái ong nằm ngoài/ củ khoai chấm mật
Phật ngồi Phật khóc/ con cóc nhảy ra/ con gà ú ụ
Nhà mụ thổi xôi/ nhà tôi nấu chè
Tè he cống rụt!
Nu na nu nống/ thằng công cái cạc
Đá xỉa đá xoi/ đá đầu con voi/ đá lên đá xuống
Đá ruộng bồ câu/ đá râu ông già
Đá ra đường cái/ gặp gái đi đường
Có phường trống quân/ có chân thì rút!
Nu na nu nống/ đánh trống phất cờ/ mở cuộc thi đua
Thi chân đẹp đẽ/ chân ai sạch sẽ/ gót đỏ hồng hào
không bẩn tí nào/ được vào đánh trống!
Khi trẻ khá lớn đi đứng chạy nhảy vững vàng và đến trường, gia nhập những trò chơi tập thể dễ dàng cũng như học những bài đồng dao dần dà dài khó hơn, và mẹ chỉ để mắt theo dõi, hướng dẫn hoặc nhắc nhở giúp đỡ khi cần.
Có những bài đồng dao kết cấu liên hoàn lập đi lập lại, làm điệu bộ theo lời diễn đi diễn lại cho đến khi mệt nghỉ:
Con vỏi con voi/ cái vòi đi trước
Hai chân trước ịch đi ịch trước
Hai chân sau ịch đi ịch sau
Còn cái đuôi thì đi là sau rốt
Tôi xin kể nốt cái chuyện con voi i í ị con voi
Cái vòi í i ị đi trước …
Con công hay múa/ nó múa làm sao?
Nó rụt cổ vào/ nó xòe cánh ra
Nó đỗ cành đa/ nó kêu ríu rít
Nó đỗ cành mít/ nó kêu vịt chè
Nó đỗ cành tre/ nó kêu bè muống
Nó đỗ dưới ruộng/ nó kêu tầm vông
Con công hay múa …
Cái cò mày mổ cái tôm/ cái tôm quắp lại mà ôm cái cò
Cái cò mày mổ cái trai/ cái trai quặp lại mà nhai cái cò
Cái cò mày mổ cái tôm …
Ba bài liên hoàn khác về chim, tập cho trẻ biết những từ liên hệ bà con họ hàng:
Bí ngô là cô đậu nành/ đậu nành là anh dưa chuột
Dưa chuột bác ruột dưa gang/ dưa gang cùng làng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô/ bí ngô là cô đậu nành …
Ác- là là cha ca-cưỡng/ ca-cưỡng là dượng bồ câu
Bồ câu là dâu ác- là/ ác-là là cha cà- cưỡng …
Bồ-các là bác chim gi/ chim gi là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen/ sáo đen là em tu-hú
Tu-hú là chú bồ-các/ bồ-các là bác chim gi …
Một bài đồng dao liên hoàn khác được Đức Quỳnh phổ nhạc và hát từ Bắc vào Nam, lời lẽ ngụ ý hài hước châm biếm:
Con chim chích chòe/ nó kêu chích chòe
Nó đậu cành chanh/ nó kêu chích chòe
Tôi ném hòn sành/ nó quay lông lốc
Tôi làm một chốc/ được ba mâm đầy
Ông thầy ăn một/ bà cốt ăn hai
Cái đầu cái tai/ đem về biếu chúa
Chúa hỏi chim gì? – Là con chim chích chòe!
Nó kêu chích chòe/ nó đậu cành chanh …
Bài đồng dao có nhạc trong Nam lời hát như sau:
Con chim manh manh/ nó đậu cây chanh
Tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết
Tôi làm được bảy mâm/ tôi dâng cho ông một mâm
Tôi dâng cho bà một đĩa/ bà hỏi tôi con chim gì?
Tôi nói con chim manh manh …
Có một trò chơi trong Nam gọi là Bắc Kim thang, dùng bài đồng dao ngô nghê ngộ nghĩnh khi các em làm thành vòng tròn, chân trái xỏ rế ngoéo vào chân trái bạn, vừa vỗ tay vừa nhảy lò cò bằng chân phải và giữ không bị té, cùng hát:
Bắc kim thang, cà lang bí rợ
Cột qua kèo là kèo qua cột
Chú bán dầu qua cầu mà té
Chú bán ếch ở lại làm chi?
Con le le đánh trống thổi kèn
Con bìm bịp thổi tò te tí te ……
Em nào không vững thăng bằng bị té là thua, bị phạt búng tai hoặc khẻ tay nếu là con gái, hoặc phải cõng bạn cùng cặp chạy một vòng nếu là con trai. Vui tếu thì phạt bằng quẹt nhọ nồi/ lọ nghẹ lên mặt. Các em trai còn bị phạt làm ngựa cho bạn cỡi, nhẹ thì dùng bài đồng dao ngắn Nhong nhong nhong nhong, mà phạt nặng hoặc trẻ lớn thì dùng bài Lý Ngựa ô. Lý Ngựa ô cũng có ba điệu phổ nhạc, Bắc, Trung và Nam, nhưng không phải là đồng dao.
Trò trốn tìm/ ú tim/cút bắt được trẻ con khắp thế giới vui chơi, và đồng dao ta có rất nhiều bài cả đám cùng loạt đọc lên để chọn người phải đi tìm. Bài đặc biệt có tính cách một bài sấm dính đến lịch sử, nói về giai đoạn rối loạn của triều đình Nhà Nguyễn và phong trào Cần Vương, thời ta bị Pháp đô hộ:
Chu tri rành rành/ Cái đanh nổ lửa
Con ngựa đứt cương/ ba vương tập đế
Cấp kế đi tìm/ ú tim … òa ập!
Bài đồng dao trốn tìm/ thả đỉa ba ba:
Thả đỉa ba ba/ con đỉa đeo bà
Con gà tục tác/ mỏ-nhát cầm chầu
Con mèo cầm lái/ con rái chạy buồm
Con tôm tát nước/ vọc nước giỡn trăng
Bài Thả đỉa ba ba khác:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà/ phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông/ gạo tiền như nước
Sang sông về đò/ đổ mắm đổ muối
Đổ nải chuối tiêu/ đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào/ nhà ấy phải chiu!
Khi đám trẻ chạy tìm chỗ nấp, em còn lại phải bịt mắt đọc bài đồng dao khác đến hết mới được mở mắt đi tìm:
Mít mật mít gai/ mười hai thứ mít
Đi vào ăn thịt/ đi ra ăn xôi
Bởi chẳng nghe tôi/ tôi bịt mắt chú
Ăn đâu ẩn kín/ lúa chín thì về!
Chơi bịt mắt bắt dê, tranh Võ Đình
Ngoài Bắc có bài đồng dao khác và Phạm Duy đã mượn ý phổ nhạc:
Ông trẳng ông trăng
Xuống chơi với tôi/ có bầu có bạn
Có oản cơm xôi/ có nồi cơm nếp
Có nệp bánh chưng/ có lưng hũ rượu
Có chiếu bám đu/ thằng cù xí xoại
Bắt trai bỏ giỏ/ cái đỏ ẵm em
Đi xem đánh cá/ đem rá vo gạo
Có gáo múc nước/ có lược chải đầu
Có trâu cầy ruộng/ có muống thả ao
Ông sao trên trời …
Hoặc:
Ông tiễn ông tiên
Ông có đồng tiền/ ông giắt mái tai/ ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố/ ông mua miếng trầu/ ông nhai tóp tép
Ông mua con tép/ về ông ăn cơm
Ông mua mớ rơm/ về ông đánh thổi
Ông mua cái chổi/ về ông quét nhà
Ông mua con gà/ về cho ăn thóc
Ông mua con cóc/ về thả gậm giường
Ông mua nén hương/ về cúng ông cụ!
Tranh dân gian của Henry Oger đầu thế kỷ XX,
chú thích bằng chữ Nôm: Đánh Cờ Chân Chó
Làm Hùm Bắt Lợn
Khi trẻ đã lớn, đã đi học và có nhiều bạn cùng lứa, có rất nhiều trò chơi dùng những thứ kiếm được ngay chung quanh hoặc tự chế lấy, ví như bắn ná làm bằng nạng ổi, bắn súng bẹ sống lá chuối, bắn súng ống hóp đạn hạt sầu đông hoặc hạt mâm xôi, bắt chuồn chuồn, buôn bán bằng hoa mâm xôi, lá mít, cái lung tung/ cái trống bỏi, chong chóng bằng lá dừa, chọi dế, đá dế, chơi gà đất có gắn ống cói ống sậy thổi te te, con giống, cối xay làm bằng hạt xoài cưa hai, đánh căn với hai khúc tre hay gỗ, đánh bi, đánh cờ chân chó, cờ gánh bằng vỏ nghêu vỏ sò, đánh đáo, đánh đu dựng bằng tre, đánh trận giả với cây cành hoa lá như Cờ Lau Tập Trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở còn chăn trâu, đánh thẻ, đánh vụ làm bằng gỗ, đá kiện làm bằng đồng xu buộc lông, đá cầu lông, đạp mạng, đạp lon, đi chợ về chợ, kéo co với giây dừa, làm hùm bắt lợn, lộn cầu vồng, lộn chuồn chuồn, liệng cống, năm tiền liền quan, ném còn làm bằng vải vụn, ném vòng làm bằng tre hoặc mây vào cọc tre hay gỗ, nhảy giây làm bằng giây dừa, nhảy lò cò với mảnh ngói mảnh sành mảnh sứ , rải ô quan/ rải ô làng dùng sỏi, sạn hay hạt đậu, xây khăn/ bỏ khăn/ chuyền khăn, thả diều làm bằng tre dán giấy … vô số kể.
Cờ Lau Tập Trận, tranh Võ Đình
Những trò chơi hầu hết cần vận dụng đầu óc bén nhạy tinh tế tính toán chính xác, điều động tay chân nhanh nhẹn, thích nghi với môi trường thiên nhiên và luyện tập quen dần với đời sống tập thể trong cộng đồng. Hát chơi mà học thật.
Bài đồng dao trò chơi Xây khăn trong Nam, trẻ ngồi thành vòng tròn, một em cầm khăn chạy ngoài, cùng đọc cho đến hết thì bỏ khăn sau lưng một bạn. Em này phải chú ý theo dõi để nhặt khăn chạy vòng, nhường chỗ cho bạn, nếu không biết sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
Đá cầu bằng đồng xu, tranh dân gian của Henry Oger
Xây khăn, khăn nổi khăn chìm
Ba bên bốn phía đi tìm cái khăn
Thằng chăn bận áo rách vai
Không ai may vá, thằng chăn bận hoài
Trò chơi Lộn Chuồn chuồn miền Trung và Lộn Cầu Vồng ngoài Bắc có cách chơi giống nhau nhưng khác bài đọc:
- Chuồn chuồn đạp nước kim cang/ bên tê mở cửa bên ni sang lòn
- Lộn cầu vồng nước trong nước chảy
Có anh mười bảy có chị mười ba
Hai chị em ta cùng lộn cầu vồng
Bài đồng dao trò Dung giăng dung giẻ đọc khi đi quanh nhiều vòng tròn, những vòng này luôn thiếu một để đến cuối khi ngồi xệp xuống sẽ có một em chậm chạp bị loại:
Dung giăng dung giẻ/ dắt trẻ đi chơi
Đi tới cổng trời/ gặp cậu gặp mợ
Cho cháu về quê/ cho dê đi học
Cho cóc ở nhà/ cho gà bới bếp
Ngồi xệp xuống đây!
Một bài đồng dao về cuộc sống luẩn quẩn loanh quanh trong nhà ngoài vườn trong xóm ngoài làng là Ông Ninh Ông Nang được Lê Thương phổ nhạc:
Ông Nỉnh ông Ninh/ ông ra đầu đình/ ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang/ ông ra đầu làng/ ông gặp ông Nỉnh ông Ninh
Nang Ninh đầu đình/ và Ninh Nang đầu làng
Nang Ninh làng đình/ rồi Ninh Nang đình làng
Nang Ninh làng đình Nang Ninh/ Ninh Nang đình làngNang Ninh
Nang Ninh làng đình Ninh …
Cô Chiểu cô Chiêu/ cô qua cầu Kiều/ cô gặp cô Thỏa cô Thoa
Cô Thỏa cô Thoa/ cô qua vườn cà/ cô gặp cô Chiểu cô Chiêu
Thoa Chiêu cầu Kiều/ và Chiêu Thoa vườn cà
Rồi Thoa Chiêu cầu Kiều/ rồi Chiêu Thoa vườn dừa
Cả Chiêu Thoa cầu Kiều Chiêu Thoa/ Thoa Chiêu vườn cà Chiêu Thoa
Thoa Chiêu vườn cà Thoa …
Em Thở em Thơ/ em qua hàng dừa/ em gặp em hải em Hai
Em Hải em Hai/ em qua vườn xoài/ em gặp em Thở em Thơ
Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa
Rồi Thơ Hai vườn xoài/ và Hai Thơ vườn dừa
Cả Thơ Hai vườn xoài Thơ Hai/ Hai Thơ vườn dừa Thơ Hai
Thơ Hai vườn xoài Thơ …
Một bài đồng dao khác được phổ nhạc là Trằng Bờm, nói lên đầu óc thực tiễn của dân quê không cần xa hoa phù phiếm cung ngũ long lầu ngũ phụng dinh thự cao ốc hay đặc sản miếng ngon vật lạ, mà chỉ muốn no bụng:
Thằng Bờm có cái quạt mo/ phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu/ phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè/ phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim/ phú ông xin đổi một đôi chim mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi… Bờm cười!!!
Thuở nhỏ tôi nghịch ngợm hát bài đồng dao Thằng Bờm và có nhịp điệu khác: Thì ra mo cau vàng mới tinh/ phú ông lập tâm mua liền! Thằng Bờm mà biết cóc chi/ Thằng Bờm mà biết cái cóc chi! Chăng chẳng lấy trâu/ Bờm rằng thì là Bờm chăng chẳng lấy trâu đâu!!!
Trò chơi tôi thích nhất hồi còn tiểu học là đánh thẻ chuyền/ đánh banh đũa, nhưng đến nay không nhớ được trọn bài đồng dao đọc đệm. Duyên may quen một gia đình nhà quê mộc mạc, bà mệ tám mươi sáu và bà mạ sáu mươi, không biết đọc biết viết nhưng còn nhớ. Bỏ một ngày thăm hỏi cùng ôn trí nhớ, ghi được một phần trò chơi này. Mong có cơ may bổ túc thêm.
Dùng tay phải nắm nguyên bó đũa 6 chiếc hoặc nhiều hơn, cùng một trái banh, có khi chỉ là quả chanh hay một bó vải vụn cuộn thành hình trái banh. Vừa thảy banh lên là trải đũa ra nhanh cho kịp bắt chụp lại trái banh, rồi lần lượt ném banh vừa bắt từng cây đũa một, rồi hai, ba, bốn … tức là phải tính chính xác làm sao vừa ném banh lên là phải nhanh mắt nhanh tay tính toán nắm đúng số đũa cần lấy đưa ngay sang tay kia và kịp thời bắt chụp lại trái banh. Trò chơi này hình như chỉ có trẻ Việt Nam ta yêu thích và hợp với con gái. Bài đồng dao đọc theo lúc bắt đầu ném banh và bắt đũa, đọc tối đa đến cuối câu phải tóm lại được trái banh, nếu trật phải nhường người kia chơi:
Cái mốt (bắt một đũa)
Cái mai/ con trai/ con hến
Con nhện/ giăng tơ/ quả táo/ cái gáo
Lên đôi (bắt hai đũa)
Đôi cái mõ/ đôi nồi chõ
Đôi thổi xôi/ đôi nấu chè/ đôi cành tre
Lên ba (bắt ba đũa)
Ba đi ra/ ba đi vào/ ba cành đào …
Khi nhặt hết đũa thì bỏ tất cả xuống để ném banh bốc cả nắm đổi sang các giai đoạn kế tiếp là con ba lại, con gang, sang tay cầm, kẹp nách, cầm quạt rẽ xương, sang tay giã, giã đơn hoặc giã đôi tùy giao ước ban đầu, nhập giã, rút ống, nhập ống, sang tay tao tức là chuyền. Mỗi giai đoạn này đọc tên báo sự thay đổi chuyển tiếp. Giai đoạn chuyền, một vòng hoặc hai vòng tùy giao ước trước khi chơi, vừa chuyền vừa ném banh rồi chụp banh lại và đọc:
Chuyền chuyền một/ chuyền chuyền hai/ chuyền chuyền ba
Chuyền chuyền bốn/ chuyền chuyền năm/ chuyền chuyền sáu …
Cuối cùng là nẻ hay khẻ, tức là đập cả bó đũa vào chân người thua cuộc, vừa đập vừa thảy banh vừa đọc đoạn cuối bài đồng dao:
Qua cầu, lặn cỏ/ núi đỏ như ma/ hầm sa/ mây sắc
Bắt con cá, chặt đuôi, chặt đầu
Têm miềng trầu, hầu chén rượu
Ai có tiền, ngồi liền lên ghế
Ai không tiền, liệu thế liệu thần
Sang tay nẻ, khẻ chân
Đánh thẻ chuyền, tranh Võ Đình
Nẻ/ khẻ chân xong là thắng, Đoạn đồng dao cuối này lại khác nếu do các nữ sinh Đồng Khánh mà nay là những mệ có cháu nội ngoại đề huề:
Ai muốn cao, ngồi ghế/ ai muốn thấp, ngồi đòn
Ai muốn đỏ, bôi son/ ai muốn vàng, bôi nghệ
Qua cầu Chợ Kệ/ về cầu Thanh Lương
Sang tay bắt con một. – Ăn! (tức là thắng)
Đoạn cuối lúc nẻ, mấy mệ ngoài Bắc lại đọc khác:
Đầu quạ quá giang/ sang sông về đò
Cò nhẩy gãy cây/ mây bay bèo trôi
Ổi xanh, hành bóc/ róc vỏ, đỏ lòng
Tôm cong đít vịt
Sang cành nẻ/ bẻ cành xanh
Vét bàn thiên hạ (tức là thắng)
Trò chơi đánh thẻ chuyền có nơi phải qua nhiều giai đoạn và dài dòng hơn.
Trong số 54 sắc dân sinh sống tại Việt Nam, người Mường là chị em của người Việt, cùng thờ Vua Hùng, cùng chung truyền thuyết một mẹ trăm con, cùng mặc yếm váy, áo cánh và áo tứ thân và đặc biệt cùng nói chung ngôn ngữ. Trẻ con Mường cũng có đồng dao kèm trò chơi. Ghi lại sau đây một:
Lếu lêu làng lôộc
Tộc ngộc ngọn cơn bo (cây hoang nhỏ có trái trẻ hay hái ăn)
Bò ăn no bò ngứa củ ráy
Ngứa củ ráy ngứa cả cơn rư (cây nưa)
Đưa bò về Mường Tráng
Tám mươi người kiếm cỏ/ bò đỏ bò nhà lang
Bò vàng, bò nhà đạo Ống
Tùng tùng tùng tùng/ ai đánh trống mường trên
Lền khên con ca trống gáy (con gà)
Gáy gáy trong rẫy ngoài mường/ vườn như vườn nhà ai
Ông mo biểu mụ máy/ trấy bín biểu trấy bù (trái bí/bầu)
Măng mu biểu măng nứa/ bố đạo biểu mệ nàng
Quan sang biểu kẻ khó/ bó ló biểu bó nếp (bó lúa)
Cơm nếp biểu cơm chim/ cào cào biểu châu chấu (một loại gạo ngon)
Cắt nứa rào cho ta chào cấm/ lấy lưỡi lấm cho ta cầm tiền
Lấy lưỡi liềm cho ta cắt bái (cỏ tranh)
Lấy lưỡi hái cho ta hái ló (lúa)
Náng lấy chó cho ta ăn thịt/ náng con vịt cho ta ăn đùi (nướng)
Nuôi con ca cho ta lấy mỡ (gà)
Dệt lấy mớ lụa điều/ dệt nhiều nhiều cho ta cưới vợ …
Trẻ con miền Bắc ngày trước rất thích chơi Phụ đồng Phụ chổi, có tính cách huyền bí như lên đồng. Bài đồng dao được đọc đi đọc lại cho đến khi đứa trẻ ngổi đồng được vía nhập:
Phụ đồng phụ chổi/ thổi lổi mà lên
Ba bề bốn bên/ sôi lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng/ phá ra mà vào
Cách chuôm cách ao/ cách ba ngọn rào
Cũng vào cho lọt
Cái roi von vót/ cái vọt cho đau
Hàng trầu hàng cau/ hàng hương hàng hoa
Là đồ cúng Phật
Hàng chuối hàng mật/ hàng kẹo mạch nha
Nào cô bán quế/ vừa đi vừa tế
Một lũ học trò/ người cầm quạt mo
Là vợ Ông Chổi
Thổi lổi mà lên …
Một trò chơi được đám trẻ gái yêu thích, cách chơi giống nhau nhưng ngoài Bắc gọi là là Trồng Nụ Trồng Cà/ Trồng Nụ Trồng Hoa, và miền Trung gọi là Đi Chợ Về Chợ. Phải có bốn em, chia làm hai cặp. Một cặp ngồi, lần lượt duỗi chồng từng bàn chân lên nhau rồi chồng bàn tay làm hoa, trong khi cặp kia đi qua đi lai rồi nhảy qua nhảy lại, vừa đọc:
Đi chợ/ về chợ (chưa đưa chân)
Đi canh một/ về canh một (đưa một bàn chân)
Đi canh hai/ về canh hai (chồng thêm một chân, là hai bàn chân)
Đi canh ba/ về canh ba (chồng thêm, ba bàn chân)
Đi canh tư/ về canh tư (chồng thêm, bốn bàn chân)
Đi sen búp/ về sen búp (chồng thêm một bàn tay chụm lại)
Đi sen nở/ về sen nở (chồng thêm bàn tay hơi xòe nở)
Đi sen tàn/ về sen tàn (bàn tay hoa nở xòe rộng hết cỡ)
Đi Chợ Về Chợ, tranh Võ Đình, XI-07
Trong trò chơi này, hai em ngồi chồng chân và xòe tay phải giữ thăng bằng, nếu bị đổ chân là thua. Hai em đi qua đi lại nhảy qua nhảy về nếu bị đụng chân hay tay hai em kia là thua. Cặp thua bị loại để hai em khác vào thay.
Nhưng trong mấy trò chơi tập thể nhân Tết Trung Thu và Ngày Nhi Đồng Việt Nam, trẻ con Bắc Trung Nam đểu thích trò Rồng Rắn, gồm một đoàn ôm eo ếch nhau nối dài đi vòng vòng quanh sân, vừa đi vừa reo hò theo một em dẫn dầu làm thầy thuốc đọc :
- Này, rồng kia!
- Dạ!
- Rồng đen hay rồng trắng?
- Rồng trắng!
- Rồng trắng lấy nước gạo mùa
Rồng đen lấy nước cho vua đi cày!
- Anh em ta cùng kéo lúa về!
Dô ô ô ô ô ô ô …
Tranh dân gian của Henry Oger
Chú thích bằng chữ Nôm: Trẻ Con Làm Rồng Rắn
Bài đồng dao Rồng Rắn cản thầy thuốc cầm cái quạt mo không cho ông bắt em nào trong đoàn, và luôn luôn giữ đoàn liên tục không đứt, vừa đi vừa hát:
Rồng rồng rắn rắn/ kéo rắn lên mây
Thấy cây lúc lắc/ hỏi ông thầy thuốc có nhà hay không?
- Có!
- Mở cửa cho vào!
- Vào làm gì?
- Mượn cái liềm
- Liềm làm gì?
- Hái củi
- Củi làm gì?
- Nấu bánh chưng
- Cho thầy ăn không?
- Không!
Trò chơi Rồng Rắn không rõ có từ giai đoạn lịch sử nào, có thể liên hệ đến thảm kịch thời Trịnh Nguyễn phân tranh chiến tranh đẫm máu giữa Đàng Ngoài Đàng Trong, hay gần hơn, là cuộc nội chiến Quốc Cộng xốc nổi đến tận cùng đời sống … với những nhân vật níu áo số mệnh nhau, như truyện dài Rồng Rắn của Lê Thị Huệ dẫn nhập. Trò Rồng Rắn được trẻ con tham dự đông đảo nhất, cũng ôm eo ếch nối dài làm con rồng, vừa chạy vòng vòng vừa cùng đọc:
Rồng rắn lên mây có cây xúc xắc
Xúc xắc xúc xẻ … Có thầy thuốc ở nhà không?
Một trẻ lớn làm ông thầy thuốc cầm quạt nan phe phẩy đi ra, đủng đỉnh hỏi:
Thầy thuốc: - Rồng rắn đi đâu?
Rồng rắn: - Rồng rắn đi lấy thuốc cho con.
Thầy thuốc: - Con lên mấy?
Rồng rắn: - Dạ, con lên một.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: - Con lên hai.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: - Con lên ba.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: - Con lên bốn.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: …..
Thầy thuốc: …..
Rồng rắn: - Con lên chín.
Thầy thuốc: - Thuốc chẳng ngon!
Rồng rắn: - Con lên mười.
Thầy thuốc: - Thuốc ngon vậy! Xin khúc đầu!
Rồng rắn: - Những xương cùng xẩu!
Thầy thuốc: - Xin khúc giữa!
Rồng rắn: - Những máu cùng me!
Thầy thuốc: - Xin khúc đuôi!
Rồng rắn: - Tha hồ mà đuổi!
Đến đây thì đoàn rồng rắn vẫn ôm eo ếch nối nhau chạy đuổi bắt vây ông thầy thuốc vào giữa cho kỳ được mới tan cuộc, giữa những tiếng vỗ tay reo hò cổ võ của những người đứng xem, trong số có những bà mẹ chứng kiến con mình lớn khôn trong tập thể, trong cộng đồng. Bài đồng dao này có giá trị như một bài sấm, một bài học lịch sử, và cũng là một bài luân lý giáo khoa thư nói lên tình đoàn kết nhất trí của Rồng Rắn, toàn dân quyết giữ gìn trọn khối chung, đánh đuổi quân xâm lược lăm le chiếm đất đai, đã hớt khúc đầu Nam Quan, lại xén đoạn giữa Trường Sa Hoàng Sa và gây tai hại đồng bằng Cửu Long miền Nam.
Những bài đồng dao và trò chơi trẻ con góp nhặt ở đây chưa đầy đủ và cần bổ túc, nhưng có chủ đích góp phần gìn giữ kho tàng văn học dân gian trước khi bị thất truyền hay quên lãng, chôn vùi dưới hàng hàng lớp lớp đồ nhựa lắp ráp máy móc Toys ‘R’ Us, CDs, DVDs, video games, PC Games, puzzles, dominos, bingo, i-pods, cell phones … và vô số trò khác ào ạt trên mạng lưới điện tử của thời đại @ còng. Ngay tại các nước Âu Mỹ, nhiều tài liệu cũng sưu tầm ghi lại trò chơi trẻ con kèm những ballads, là thơ xưa từ thế kỷ XV/ XVI được phổ nhạc có điệp khúc lập đi lập lại, và Shakespeare từng trích dẫn vào tác phẩm.
Chúng ta đang ở đầu thế kỷ XXI. Mai sau, dù có bao giờ, phần sưu tầm biên khảo nhỏ nhoi này mong còn được đôi khi lần giở trước đèn, để may ra có người mở trang sách cũ tìm hiểu về đất lề quê thói, thấy rõ ràng kho tàng văn học dân gian đặt nặng giáo dục gia đình trên vai người mẹ. Những lời ru ca dao ạ ơi ời hà hơi văn hóa mẹ vào tâm hồn trẻ từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi chập chững lững thững những trò chơi đi kèm đồng dao, để từ đó vững bước vào xã hội. Hát mà chơi. Hát mà học. Hát chơi mà học thật. Học làm NGƯỜI.
Trần thị LaiHồng
Từ tiểu bang xanh 1987 qua Hoa bang 2007
Tài liệu tham khảo:
- Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt nam Tự Điển, Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội 1931
- Henry Oger, La Technique du Peuple Annamite, NXB Jouve & Cie, Paris 1908
- Hùinh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Imprimerie Rey, Curiol &Cie, Saigon 1895
- Hướng Đạo Ca, Kỷ niệm70 năm Hướng Đạo Việt Nam 1930-2000
- Jack Maguire, Hopscotch, Hangman, Hot Potato & Ha,Ha, Ha! Rockefeller Center, 1990
- Lê thị Huệ, Rồng Rắn, Lũy Tre Xanh xuất bản, San José 1989
- Lư Nhất Vũ/ Lê Giang, Tìm Hiểu Dân ca Nam bộ, NXB TPHCM, 1983
- Mệ Bê, tài liệu sống, San Diego, CA
- Mệ Nguyễn Đề, tài liệu sống, West Palm Beach, FL
- Minh Hiệu, Tục ngữ Dân ca Mường Thanh Hóa, NXB Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội 1999
- Nguyễn Mạnh Hùng, Ký họa Việt nam, NXB trẻ, Saigon 1989
- Nguyễn Như Ý, Đại Tự diển Tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Dân Tộc, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn Hóa CHXHCN, Hà Nội 1998
- Nguyễn Tấn Long/Phan Canh, Đất Lề Quê Thói, NXB Sống Mới, Saigon 1970
- Nguyễn Thuyết Phong and Patricia Shehan, From Rice Paddies and Temple Yards: Traditional Music of VietNam, World Music Press 1989
- Nguyễn Trúc Phượng, Văn học Bình dân, Nhà Sách Khai Trí, Saigon 1964
- Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con hát Trẻ Con Chơi, NXB Alexandre de Rhodes, Hà Nội 1943
- Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Thi Ca Bình Dân Việt Nam, NXB Sống Mới, Saigon 1978
- Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Tục Ngữ Phong Dao, NXB Vĩnh Hưng Long, Hà Nội 1928
- Trần Quang Đức, 175 Trò Chơi Tập thể, NXB Thanh Niên, Hà Nội 2006
- Trương Anh Thụy, Trường ca Lời Mẹ Ru, NXB Cành Nam 1989
- Trương Tửu, Kinh Thi Việt Nam, Tủ Sách Văn Hóa Hàn Thuyên, Saigon 1940, Xuân Thu tái bản Houston, TX
- Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ và Dân ca Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội 1956
- William Wells Newell, Games and Songs of American Children, Dover Publications, Inc. New York 1903