Tr Ần Trung Chính
Con trắm đen
Lão muốn tin rằng
những tai hoạ hành hạ lão là do lão phải chịu
quả báo của tiền kiếp, lão chưa thể
chết vì còn phải chuộc tội, phải kiên nhẫn
bày tỏ cho xong sự hối cải. Vâng, lão đã
nhẫn nại, sẽ còn nhẫn nại. Nhưng xin Người,
sao Người không cho con cái của Người vào một
lúc nào đó được chứng kiến tội ác hay
sự lầm lỗi của nó trong kiếp trước, để
con cái của Người ứa nước mắt cầu
xin Người hãy trừng phạt thê thảm hơn.
Rằng, hoặc Người bắt chúng chứng
nghiệm sự quả báo ngay trong cuộc đời
của mỗi đứa... Lão uất nghẹn họng,
đôi mắt chưa chịu chết hẳn như hai
hốc rất sâu, từ đáy nó vẫn thoi thóp sống,
và lại đau ghê gớm. Lão nén tiếng rên, úp đôi bàn
tay lên mắt ngăn những giọt lệ trào ra nóng
bỏng: “Không, Người đã không công minh với con, con
hờn oán Người...”.
Trước ngày ánh sáng vĩnh viễn tắt trong đôi
mắt, lão đã từng hi vọng trong thời gian khả
năng phục hồi thị lực được
mở ra. Nhưng rồi bóng chiều ập xuống kéo
dài, mươi bận một ngày lão nâng đôi bàn tay
trước mắt, nhận ra càng khó khăn hơn hình
viền lờ mờ hai bàn tay. Lão đập đầu van
lạy, khẩn cầu, nước mắt cạn
kiệt, khuôn mặt khô héo vì tuyệt vọng. Lão phải
cam phận, phải cố tin rằng: vợ chết, mù
loà, chỉ có thể là sự báo ứng của tiền
kiếp. Tai hoạ ập xuống lúc lão đang gắng
gượng hàn nốt mấy thanh thép cột trên tầng
năm ngôi nhà đang xây. Lão vừa nuốt xong cái bánh
mỳ lẫn vô vàn bụi cát công trường. Một
bữa tối hút khô dịch vị, khiến lão thèm húp
một hơi hết bát canh cá chua nấu dọc mùng,
rồi được ngâm mình dưới nước
hồ, khoan khoái nhận nước thẩm thấu qua
từng tế bào, nước làm trương và ứ
đầy cơ thể. Được phục hồi sau
cả một ngày bị thiêu đốt trong nắng tháng
bảy, cùng với sức nóng toả từ những
ngọn lửa hàn đã hút kiệt nước trong
người lão. Giá vợ lão còn sống, để lão
được sống như một người bình
thường bồn chồn cảm nhận sự chờ
đợi của ai đó, và cũng khắc khoải
chờ đợi một ai đó. Còn lúc này chỉ có
những ánh lửa hàn, những lằn roi điện
quất lên bầu trời nhàu nát như cái đũng
quần đàn bà... Đó là tất cả những gì rõ nét
còn lưu lại trong kí ức trước giây lát lão
gặp nạn.
Hôm đó đứa cháu nội cũng lọt lòng, một
kẻ vừa chui khỏi bóng tối, một người
rơi vào đêm đen.
Lão đã thuộc đường di chuyển trong nhà mà
không va đập, không làm đổ vỡ dù một cái chén
uống nước đứng sát mép bàn. Âu cũng là
sự khác biệt đáng hãnh diện của chúng ta,
những người có nguyên vẹn đôi mắt sáng luôn
qua cái gương quan sát định kỳ của bản thân,
chẳng cần tìm cách thích nghi với không gian nhỏ bé
của ngôi nhà mình. Đáng hãnh diện hơn nữa là, vào
những dịp có thể chúng ta còn từ vị trí nào
đó xét được rằng nơi ta sinh sống
nhỏ bé, cũ kỹ, hay to lớn trong tương quan
với những ngôi nhà hàng xóm. Còn lão mù phải học
cả cách chăm sóc đứa cháu nội, thăm bằng
mũi và tay lúc nó đái, ỉa, tính sao để thằng
cháu chưa biết nói có thể đớp trúng thìa thức
ăn do lão bón...
Một hôm nó giẫy đạp trong vòng tay lão, ưỡn
cong người đòi chơi, lão quờ quạng tìm
một vật trên giường để dỗ cháu.
Thằng bé không chịu vùng vẫy hất đi, nhưng
chẳng khóc, nó vươn người hướng về phía
cửa sổ. Lão chú ý, hồ nghi, chợt hiểu những
tiếng chim réo rắt ngoài phố đang lôi cuốn nó,
nhưng không phải những âm thanh do bầy chim nào
đồng thanh hót. Lão nhớ ra một năm mươi
bận có người đàn ông vẫn đến phố
này bán những con chim bằng gốm, ông ta mỏi mệt
ngồi trên hè phố, kiên nhẫn thổi con chim gốm
chứa nước trong bụng, gọi bầy trẻ
đến vây quanh mỗi lúc thêm đông. Bầy trẻ con
của phố ngậm những con chim gốm đua nhau rúc
khắp mọi nhà. Những ngày đó tiếng chim gốm
reo từ ban mai, có thể làm ai đó giật mình nhớ ra
rằng thành phố này đã từng có những con chim
chuyền dưới các tán lá xanh. Tiếng chim đánh
thức một cách khiên cưỡng những câu chuyện cổ
tích lỗi thời. Những con chim gốm sống sót,
được tha thứ, do chúng không giành thức ăn
với người và chúng đủ khôn để
chẳng chịu hầu rượu một ai cả.
Lão vụng về vót nan đan lồng, mua chim. Bây giờ
đứa cháu nội của lão đã nhìn thấy một
con chim lông vàng biết nhảy, biết chở thằng bé
vào câu chuyện cổ tích nào đó mà người lớn
vẫn hành hạ trí tưởng tượng của bọn
trẻ. Lão sẽ đưa nó đi thăm vườn bách
thú xem những con chim to sống ở lồng to, chim
nhỏ ở lồng nhỏ. Liệu lão phải giải
thích ra sao về bọn chim ấy với đôi mắt
đã loà, cái khó là phải giải thích tại sao chúng
bị nhốt, nếu thả chúng sẽ bay mất vì
sợ người? Không, người sợ chúng cháu ạ.
Chúng có thể mổ mắt chúng ta như đã mổ
mắt ông. Nói dối phải tội, có thể bị mù
lần nữa. Thôi vậy, lão thở dài, tới lúc đó
hãy hay, bọn trẻ lớn lên ngoài sự giải thích
của người già.
Khi thằng bé đã lẫm chẫm đi được,
nó chẳng chịu nép sát lão mỗi khi lão rờ rẫm cho
chim ăn, nó đứng vào cái tầm mà con chim không mổ
mắt nó được.
Đã gần mười năm lão phải sống cảnh
vợ goá con côi, từ năm lão chưa đến sáu
mươi tuổi, chưa vào tuổi luôn mong ước
được người ta chôn mình, đừng bắt mình
chôn người ta. Trời đưa bà ấy đi nhanh
quá, không đợi lão làm hết buổi về nhà
để vợ chồng dặn dò nhau. Lão chải
đầu, vuốt và vấn lại những sợi tóc
đen trộn bạc vương lơi ra ngoài khăn. Lão
giằng co, gạt mọi người ra để cho lão
ngồi bên bà, cầm lấy bàn tay bà đã buốt như
sương, gắt lên với bà: “Bà đừng dậy
sớm nấu nướng lích kích, tôi ăn thế nào
cũng được...”. Lão kể lể chuyện
giỗ chạp. Tết lễ nào cũng giận bà việc
bếp núc,... “người ta sống không cốt ở cái
ăn, cốt ở cái vui, sao bà chẳng chịu hiểu?”.
Hàng tháng sau đó, lúc hai cha con ngồi bên mâm cơm, lão
vẫn đợi bà xới cơm cho lão, lão bảo với
thằng con: “Mày cứ ăn rồi đi việc mày”. Lão
ngồi đợi vợ cùng ăn bữa tối, vật
mình hờn trách bà bỏ lão, rồi yên lặng ôm cái cơi
trầu của bà để lại. Lão chọn lá trầu,
bổ cau, cắt vỏ, nêm vôi, têm trầu cho vợ... Lão
lên giường trăn trở sao cho có thể đặt
mình đúng vị trí bà ấy đã nằm trước lúc
nhập quan. Lão buông xuôi tay, mắt mở trừng trừng
đợi bà về đưa lão cùng đi.
Căn nhà tối om, chuột, mèo chí chóe giành nhau khúc cá kho
trong mâm, xô đổ bát đĩa. Lão gượng dậy
bê mâm dọn dẹp.
Từ dạo con trai lão lấy vợ, nó đóng lại cho
lão cái bàn thờ, kê cái chõng tre dưới đó. Lão
để cho vợ chồng nó và đứa cháu dùng cái
giường cũ của vợ chồng lão. Cái
giường ấy mênh mông quá và thời gian đối
với người mù như dài hơn, được xác
định bởi diễn biến âm thanh chỉ
đến khi về đêm mới tắt dần. Lão
rất khó ngủ với đôi mắt loà, nó là hai hòn than
còn âm ỉ cháy. Những khi tiếng động lắng
xuống, đôi mắt lại nóng và chói lên, còn giấc ngủ
trong tiếng động ngắn, bồng bềnh, không sâu.
Lão thắc thỏm sợ có đêm nào bà về không có
chỗ ngủ, chợt nghĩ thế lại nhỏm
dậy với tay tìm cơi trầu, lão ngồi dựa
lưng vào vách thầm thì: “Bà ghé ngồi tạm với tôi
vậy, tôi lựa một miếng trầu têm sẵn
mời bà đây...”. Cuối buồng thằng con trai cùng con
vợ hành hạ cái giường từ chập tối,
giờ đã say giấc, đứa con dâu rên rẩm trong
mơ.
Lão lập cập nhấc cái ống nhổ lên mặt chõng,
bà ấy sạch lắm, dây tí quết trầu cũng
phải lau kỹ càng. Đêm nay chuyển trời, gió quá,
trẻ nhà ai khóc ngằn ngặt, đứa cháu lão quật
chân thình thịch xuống giường và có tiếng
người mẹ trẻ ngái ngủ hát ru rầu rĩ.
Vợ chồng thấy nhau già phải qua cái sự thể
nào đó, giống như ta bỗng nghe thấy con mọt
cắn thang giường mới biết nó đang cũ
trước mắt ta. “Giá biết sớm, tôi sẽ
ngắm bà luôn, năm nào nhỉ?”. Lão thấy bà đã
gội đầu, tãi mớ tóc rất nhiều sợi
bạc hong gió, cả nạm tóc rối cũng thế.
Hương hạt mùi quanh quất... Bà cười
để lão không ngượng ngập luồn tay vào bà tìm
những chỗ lão yêu dấu, giúp lão nâng cảm xúc của
mình và giữ nó không quá nôn nao. Bà lau những giọt mồ
hôi trên mặt lão, gượng xoay xở để lão
nghỉ thở hổn hển trên người bà.
Bà làm cho lão tin vào sức khỏe dẻo dai của lão, còn có
thể hái, hưởng những búp non tận ngọn cây
cổ thụ. “Chúng mình chưa già phải không bà?”. Bà
cười thoáng chút xót ruột gật đầu. Lão
vẫn đoán ra mắng yêu bà là “con lợn đất”,
những đồng tiền trót bỏ vào đấy
phải có mẹo mới khều ra được, lão cài
khuy áo cho vợ, siết bà vào lòng. Lúc nào cũng dè sẻn,
dè sẻn cả một đời người, bà lại
cười bóc múi cam đưa vào miệng lão, dùng dao
lạng mỏng phần cùi để bà ăn cho thơm
mồm. Vợ chồng ngủ với nhau cũng dè
sẻn, bà dỗ dành mỗi lúc lão muốn lắm, vuốt
và gãi đầu lão nhè nhẹ: “Ông ngủ sớm lấy
sức đi làm nuôi mẹ con tôi”.
Không riêng lão, những thằng đàn ông chẳng bao giờ
chịu ngắm vợ nó lúc sống, mặc dầu khá hay
quan tâm đến vợ bạn, mặc dầu chẳng
để làm gì sất, chẳng mưu mô gì, nhưng chúng
cứ săm soi mọi thứ bên ngoài nhà chúng.
Lão thấy đói, rờ rẫm mở chạn lấy cái
bát chiết yêu đựng cơm phần lão, mò mẫm nhai
nhỏ nhẹ với muối vừng, vừa ăn
vừa xoay chầm chậm cái bát trong lòng bàn tay. Những
hình trang trí gợn trong tay lão, cái bát bà ấy sắm, vẽ
đôi cá một đen, một vàng bơi đuổi nhau
giữ khoảng cách bởi mấy cụm rong nước.
Hai con cá tựa vào vòng tròn sẽ chẳng bao giờ gặp
nhau, nhưng chúng không biết điều đó và chưa
đánh mất hy vọng tìm kiếm nhau. Lão bật
cười nhớ lại bà ấy thường khoe
với mọi người tài câu cá của lão: “Ông nhà tôi sát
cá lắm, ngồi trên mái nhà cũng giật được
cá”. “Sao lại không? Lão sẽ cõng đứa cháu leo lên mái,
tới tận lớp ngói bò trên xà nóc, sẽ buông cần câu
ra ngoài khoảng không. Chỉ cần trăng thật thanh,
gió rười rượi đưa bà về xem ông cháu tôi
giật một con trắm đen”. Lão lẩm bẩm,
thiếp đi.
Ngoài trời, rạng đông đang tới, tiếng
thằng cháu gọi lanh lảnh: “Ông ơi! Bố mẹ
cháu ngủ cởi truồng này”.
*
Định hướng của người mù giống
như định hướng của loài thảo mộc,
chậm chạp ra lá đơm hoa, nhẫn nại
hướng về phía có ánh sáng, dẫu mọi thay
đổi của thời gian, tiết mùa đang diễn
ra khắc nghiệt. Cuộc chuyển dịch ấy
lặng lẽ, không lạc hướng do mọi thứ
ánh sáng tạm thời hoặc nhân tạo cám dỗ. Và
như thế sự vận động được
chuẩn bị từ bộ rễ, phần nền móng
cấu trúc. Mỗi khi lão khua tay tìm lối, đôi chân
được chỉ định đồng thời
bước dò dẫm. Tư thế của người
tiến vào bóng tối. Lão hít sâu, thở chậm và lắng
nghe, cảm nhận rõ làn không khí bồi hồi như
những lớp sóng nằm ngang, lắng nghe mọi
tiếng động vỡ ra có chiều nan quạt.
Tiếng sỏi đá trôi dưới bàn chân, tiếng
nước vỗ óc ách ngập ngừng phía trước,
mặt hồ đang hút mọi âm thanh ồn ã vào lòng
bể lọc, buộc những tiếng động thô
nặng chìm xuống. Gió chạy len qua từng kẽ lá
cuốn dâng mùi cỏ, mùi đất lạnh ẩm, gió thu
bốc từ ngoài hồ nữa, gió chếch bắc mát khô.
Lão thèm nhìn thấy một chút mây trên bầu trời, giá mây
chỉ gợn và câm như vân sa thạch.
Lão ngồi chớm bờ nước, dòng cần
đưa được hòn gạch mồi vào tầm
sẽ thả lưỡi câu cách bờ chừng năm mét
rưỡi. Hòn gạch mồi, lão nghĩ đến nó
vừa chua chát vừa đắc thắng, đó là lối
câu của thằng ăn mày. Những thằng không chịu
để con cá chết một cách đàng hoàng, nghĩa là
những con cá được chén một cái gì đó
trước khi chết, chết khi đớp xong con
mồi quá dễ dàng chẳng hạn. Nhất là bọn
trắm đen, lão có thể nghe thấy chúng nhai vỡ
những con ốc nằm trong bùn như người ta
nghiền sỏi. Dũng mãnh như chúng, do quá cả tin mà
chịu chết, trời ạ! Nếu bà ấy còn
sống, bà ấy sẽ dụ chúng bằng món thính rang cho
vừa hồi, đến người cũng thèm rỏ
rãi. Sao có thể cưỡng được nếu bà
ấy muốn, lão đã từng đùa rằng: “Nếu bà
ngồi bên, lão sẽ giật được 10 con trắm
đực trong một phút”. “Con lợn đất” của
lão sổng chuồng rồi, chẳng còn mẹo nào có
thể khều từ bụng nó lấy vài đồng
bạc, dọn một bữa tử tế mời bọn
cá. Nhưng dẫu sao đó là hòn gạch mồi chưa quá
đạm bạc, thằng cháu đào giun để lão rang
trên hòn gạch nướng trong lửa, tanh tưởi
thấm vào tận ruột gạch. Một con cá gỗ còn
làm mặn mồm những kẻ hà tiện, và bây giờ
trong số những kẻ hà tiện, có kẻ lại cho
bọn cá tham ăn chẳng bao giờ chén nổi hòn
gạch. Lão buồn bã, giá đừng nghĩ đến
chuyện đó.
“Ông ơi! Cá đến đấy!”
Thằng cháu nhìn thấy những hạt tăm sủi trên
lưỡi sóng. Lão đã biết, chúng đang lao như
thuỷ lôi vào bờ, chỉ loài tạp ăn mới
mạnh mẽ như thế. Lão gượng nâng cần lên
một chút, sóng có thể đẩy bộ chùm sáu
lưỡi vật vờ, lớp bùn mịn mát như sa
mỏng ngầu lên nguỵ trang vũ khí của lão. Mỗi
khi lão tập trung chú ý, cơ hồ cánh tay cầm cần
câu rung rung, cánh tay trở nên yếu và nhẹ. Toàn bộ
dụng cụ câu lại nặng trĩu trong thế chông
chênh, có thể ví như thế năng của cái cân
tiểu ly, đến nỗi một con cá lượn nhanh
quanh bộ lưỡi câu tạo ra những vòng tròn sóng
nặng sâu, cảm ứng đó lan chuyển tới cánh tay
lão hơi tê, buồn. “Bà nó ơi! Tôi sẽ kéo lên một con
cá mà chẳng đĩa, mâm nào đáng chỗ cho nó, phải
cái chiếu điều bà ạ, một con cá đáng kể
phải được nằm thở trên chiếc
chiếu điều. Nó sẽ làm bà giật mình, con cá có
bộ xương như dàn ăngten lớn nhất,
miệng nó ngậm một bó hồng thắm, con cá xứng
đáng trong ngày giỗ của bà”.
Lão mong bộ lưỡi câu đừng đánh cạnh,
chỉ mắc vào thân con cá gãi mình cho nó, mọi cố
gắng hoá ra chỉ để nhặt một cái vẩy.
Cánh tay rung và lão tràn trề hưng phấn. Chạm rồi,
dây câu chợt căng riết nhói bàn tay lão. Đứa cháu
đứng sau lưng ông hoảng hốt nhìn con cá vùng
khỏi mặt nước, cái đầu nó to như cái
nồi, giương cặp mắt thao láo, cặp môi
đỏ như môi người đàn bà ăn trầu. Nó
thét lên:
"Con cá to lắm, ông ơi!"
Lão biết, con cá đã bị mắc lưỡi câu nhao
khỏi mặt nước, giây phút lão vẫn gọi là
được xem mặt cô dâu, và bây giờ nó bắt
đầu chạy trốn. Lão hối hả thả giây
câu, không kịp mất, giây chạy siết trong tay lão
bỏng rát muốn bốc khói. Dây trôi vun vút, thả
chậm một tích tắc sẽ đứt dây câu, lão
đang gặp một đối thủ phi thường
thừa sức kéo lão xuống đáy hồ, lão phải
dẻo dai chọi với nó, phải chờ nó đuối
sức. Dây đã đi gần một trăm mét, lão kinh
sợ nhận thấy tốc độ của con cá càng
thêm dữ dội, bàn tay lão cầm dây nhớp nháp máu. Con cá
chuyển hướng chạy chữ chi, sức căng
giảm đỡ ở mỗi vòng ngoặt của nó,
chớp lấy khoảnh khắc ấy lão thu dây, mong sao nó
đừng quay trở lại để rúc vào hang hốc,
những chỗ rậm rạp, hòng phá đứt dây câu
của lão. Tay lão tê dại, nhức nhối, giá
được thử duỗi mấy ngón tay mất
hết cảm giác. Nhưng con cá lại điên cuồng lao
thẳng, bỏ lối phóng chữ chi không thành công, ba
lưỡi câu ngạnh tụt sâu vào cổ làm nó đau
đến mờ mắt, bây giờ nó rúc thẳng xuống
đáy, nghỉ trong lớp bùn, xác định lại
hướng và sẽ vùng lên một lần nữa. Lão hấp
tấp cuốn dây, cả đời chưa bao giờ lão
sung sướng như thế, sung sướng
được chờ cuộc giằng co tức khắc
tiếp tục, sung sướng quăng đi cái cần
hết tác dụng, lão sẽ đương đầu
với nó bằng đôi bàn tay khòng khèo như bộ rễ
cây. “Nào con ơi! Chạy đi!”. Lão gào vang mặt hồ
đúng lúc nó cất mình khỏi lớp bùn băng băng
lao sát mặt nước. Lão lại bung và ghìm dây xuống,
ngâm đôi bàn tay đau đớn vào nước... Lão
đang sử dụng tới những mét dây cuối cùng,
không còn hy vọng con cá đuối sức. Hỏng rồi,
bà ấy sẽ bảo lão thua con cá vì tuổi tác.
Sự suy yếu của cơ thể con người không
chịu bộc lộ tuần tự, có thiện chí, giúp
chúng ta bổ khuyết chỗ yếu kém, dè chừng
những ham muốn thái quá. Cái cơ thể lão, lão nghĩ
nó đối xử với lão như một thằng
bạn xấu. Thằng bạn chẳng răn đe gì hết,
đùng một cái nó cảnh cáo lão trước một
sự đã rồi. Vợ chồng già nằm bên nhau không
nhất thiết như bọn trẻ, nhằm bày tỏ
một cái gì đó, cái ấy thường chẳng tình
cảm lắm đâu. Tình cảm gì mà rời nhau ra là
cả hai ngáy như sấm, đứa cuộn hết
chăn, đứa nằm trơ ngủ lạnh. Lão
nhớ lão hay trằn trọc rất lâu sau đó, tay
vẫn nắm chặt tay bà khô ráp. Đã yên tâm nghe thấy
bà thở đều, bàn tay bà nới lỏng trong bàn tay lão,
lão thở dài khẽ khàng xây lưng lại. Lão ngạc nhiên
khi những ngón tay bà chợt linh động vuốt tóc lão
gọn ghẽ và tiếng bà trong như đương ban
ngày: “Ông ngủ đi! Ngủ đi!”. Thế là cả hai
lại không ngủ được, còn hơn cả sự
khao khát, bồn chồn, luyến tiếc, nó là dòng sông
chở mãi chẳng hết nước. Lão thấy mình to
lớn, cường tráng và đau đớn, cái thân xác già
yếu không chứa nổi lão, không thể hiện, không
diễn đạt, không bền vững như lão
tưởng, nó suy thoái nhanh, nó thua lão, xấu hổ với
đôi bờ vai nhỏ nhắn, cái cổ mảnh như
bông huệ của bà. Lão không còn ghen với những
người đàn ông mà bà đã gặp gỡ trước
lão, bà có thể bình tĩnh kể khi lão muốn nghe, bà
nằm mềm mại trong vòng tay lão. Những câu chuyện
chẳng nhức nhối, chỉ làm lão thoáng sợ thay cho
bà, như những sự kiện buồn vui trong hành trình cô
đơn của bà. Có những chi tiết lão hoài nghi, hình
như nó được rút ra là do bà đã lùi xa để
nhận định về nó, giữ phần bao dung cho bà,
chua xót cho bà. Nói cho đúng, lão thoáng buồn cho cả hai,
bởi những con đường quanh co của số
phận, những con đường không sao nhận
thức được vừa phóng túng vừa nghiệt ngã
và lầm lạc. Lão cố nhẫn nại, gợi mở,
giúp bà có được tâm trạng yên tâm phơi bày
những phần sâu kín của bà. Lão buồn đến
thắt lòng khi nhận thấy ngoài vị cay đắng,
còn vị ngọt ngào của những ký ức trên chót
lưỡi người kể chuyện. Ánh sáng dĩ vãng
của bà bao giờ cũng làm ấm lẫn tê tái trái tim
lão. Lão lén lau những giọt nước mắt hạnh
phúc đồng thời đau khổ khủng khiếp, lão
giật mình cùng lúc nhìn thấy những giọt lệ trào
ra từ khóe mắt bà. Lão biết mình đủ sức
chối từ tất cả, chối từ cuộc
sống xiết bao sung sướng và lo lắng này.
*
Thằng bé sợ hãi nhìn ông nó bị con cá kéo đi,
nước đã lên tới ngực ông, ông nó vẫn
chới với nâng đôi bàn tay bê bết máu trên mặt
nước. Nó nức nở:
“Ông ơi! Về nhà thôi, sắp tối rồi!”
Lão đuổi kịp con cá, lão chẳng tin đã bơi
kịp nó, mà nó đợi lão, nó biết lão quyết theo nó,
lão lần theo sợi dây cước lặn xuống, hai bàn
tay lão áp lên thân nó nhớp trơn như vách đá cổ. Lão
đẩy nó từ từ lên mặt nước, nghe
thấy tiếng đứa cháu gọi xa xăm như
tiếng xa vọng:
“Ông ơi! Về thôi!”
Ông đây! Lão cố gào lên đáp lại, chưa dứt
tiếng, con cá lẹ làng trườn khỏi tay lão, thúc
đầu vào ngực lão, ép lão quay tròn và cũng nhẹ
nhàng như thế nó quăng đuôi quật vào mặt lão
một cú chí tử. Lão chìm như cái lá rơi xuống
đáy hồ, hai chân thục sâu trong bùn, lão vãi đái ra,
nước nóng hai bên bẹn, cuống cuồng khua tay nhào
lên gặp những búi rong như tóc đàn bà quấn
riết đôi cánh tay.
Không đời nào, lão hớp một hơi sâu lặn
đuổi theo con cá, lão ráo riết quấn thu dây câu
bằng khuỷu tay. Nỗi thèm muốn dấy lên tức
ngực, lão nhận ra ý muốn ấy từ nụ
cười mê dại của bà thách thức lão. Lão sẽ
trỗi lên là một người đàn ông xứng đáng
nhất, người có khả năng xoá sạch mọi
trăn trở, nhắc nhở quá khứ trong cuộc
đời người vợ quá cố.
“Về thôi ông ơi! Tối rồi!”
“Tối rồi, về thôi ông ơi... ơi...”
Hà Nội 1992
(Nguồn: Trích trong Cư trú, tập truyện ngắn của Trần Trung Chính, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ti truyền thông Nhã Nam, Hà Nội 2006)