Trần Văn Thọ

Trần Văn Thọ

Kandagawa : Ḍng sông đă đi vào thi ca Nht Bn

 

 

Kandagawa là con sông nhỏ chảy giữa thành phố Tokyo. Một khúc sông chảy gần Đại học Waseda, nơi tôi đang dạy học và nghiên cứu, đă trở thành vũ đài của một t́nh khúc vượt thời gian.

Từ pḥng nghiên cứu của tôi đi bộ khoảng 7, 8 phút là tới sông Kandagawa. Hằng năm vào đầu tháng tư, hoa anh đào nở rộ hai bên bờ sông. Đặc biệt khúc sông gần Đại học Waseda vào dịp nầy nhiều người vừa đi thưởng hoa vừa làm thơ, loại thơ senryu, viết trên mảnh giấy nhỏ treo trên cành anh đào. Senryu là loại thơ 17 chữ thịnh hành từ giữa thời Edo (giữa thế kỷ 18), có nội dung hoặc tự trào hoặc trào phúng liên quan nhân t́nh thế thái, phê phán xă hội hoặc diễn tả tâm cảnh của ḿnh.

Kandagawa đi vào thi ca qua nhạc phẩm cùng tên con sông, ra đời năm 1973. Bản nhạc do ban nhạc Kaguyahime của ca sĩ Minami Kosetsu (đồng thời là người soạn nhạc cho tác phẩm nầy) vừa phát ra trên chương tŕnh ca nhạc ở các đài phát thanh đă được đón nhận nồng nhiệt, thính giả liên tục gửi yêu cầu phát thanh lại. Đĩa nhạc phát hành ra là bán hết ngay, mỗi ngày trung b́nh bán tới 80.000 đĩa, chỉ vài tuần số bán lên tới cả triệu đĩa. Cho đến bây giờ nhạc phẩm nầy vẫn được người Nhật ưa thích. Đặc biệt ca từ gợi cảm và một số câu, một số nội dung trong đó được người đời tiếp tục bàn luận với nhiều cách giải thích khác nhau. Nghe nói trong công viên Suehirobashi gần trung lưu sông Kandagawa có một tấm bia khắc ca từ của nhạc phẩm nầy. Thật hiếm có một nhạc phẩm có lịch sử mới 40 năm và người viết ca từ hiện nay mới 66 tuổi, đă sớm trở thành huyền thoại. Quỳnh Chi đă phỏng dịch ca từ của tác phẩm nầy thành một bài thơ. Được tác giả đồng ư, tôi chép lại bài thơ đưa vào cuối bài viết này.

Người viết ca từ cho nhạc phẩm nầy là Kitajo Makoto, sinh năm 1947, nguyên là sinh viên khoa văn của Đại học Waseda. Trong nhạc phẩm, Kitajo hồi tưởng lại thời đi học ở Waseda, vào cuối thập niên 1960, cùng với người yêu thuê “một pḥng trọ 3 chiếu, từ cửa sổ nh́n xuống là ḍng sông Kandagawa”. “Chiếu” là đơn vị đo lường độ lớn của một căn pḥng, mỗi chiếu tương đương khoảng 1,5 mét vuông. Độ lớn tiêu chuẩn một căn pḥng thường là 6 chiếu. Pḥng nhỏ là 4 chiếu rưỡi. Pḥng 3 chiếu th́ rất nhỏ.

Thập niên 1960 là giai đoạn kinh tế Nhật phát triển được thế giới đánh giá là thần kỳ. Kế hoạch bội tăng thu nhập quốc dân của thủ tướng Ikeda Hayato chỉ 7 năm là đạt được mục tiêu, thay v́ 10 năm như dự kiến. Năm 1964 Nhật tổ chức Tokyo Olympic và mở đường tàu điện cao tốc (Shinkanesn) Tokyo- Osaka, đánh dấu một bước phát triển. Cuối thập niên 1960 hầu hết nhà nào cũng có tủ lạnh, TV, quạt máy. Đời sống của người Nhật nói chung đă được cải thiện nhiều. Tuy nhiên phải đợi đến thập niên 1980 mức sống của người Nhật mới theo kịp các nước tiên tiến Âu Mỹ.

Trong bối cảnh đó, sinh viên đại học vào thập niên 1960 nói chung là chật vật, nhất là sinh viên xuất thân ở địa phương đến học tại các đại học ở Tokyo. Thông thường họ phải thuê nhà trọ chật hẹp 4 chiếu rưỡi hoặc 3 chiếu, dùng chung nhà vệ sinh, đôi khi chung bếp nấu ăn với những pḥng khác, và phải đi tắm ở các nhà tắm cộng đồng do tư nhân kinh doanh. Hai người yêu nhau trong nhạc phẩm Kandagawa ở chung trong căn pḥng chỉ có 3 chiếu cho thấy cuộc sống đặc biết khó khăn so với mức trung b́nh của sinh viên thời đó. Nhưng qua ca từ ta có thể tưởng tượng đó là đôi t́nh nhân yêu nhau thắm thiết. 

Ca từ của nhạc phẩm chỉ là sự hồi tưởng về vài sinh hoạt hằng ngày hay vài đối thoại của hai người nhưng viết rất hay, gói ghém được t́nh cảm mộc mạc, chân thật, gợi cảm. Đặc biệt h́nh ảnh sinh hoạt ấy lại phản ảnh một thời đại của xă hội, thời đại tuổi đôi mươi của những người sinh trong giai đoạn 1947-1949 là giai đoạn bùng nổ trẻ sơ sinh (baby boom), những người làm nên một thế hệ với tỉ lệ dân số lớn ảnh hưởng đến xă hội Nhật trong nhiều thời kỳ.

Trong ca từ chỗ hai người cùng đi tắm ở nhà tắm công cộng (tiếng Nhật gọi là sento) được người đời bàn tán nhiều. Sento chia ra hai gian riêng cho nam và nữ. Mỗi gian ngoài những chỗ có ṿi nước nóng, lạnh cho từng người ngồi tắm c̣n có một bồn nước nóng lớn, ngồi ngâm ḿnh trong đó sẽ có được cảm tưởng như đang đi tắm ở suối nước nóng. Người chủ hoặc người quản lư thường là một phụ nữ lớn tuổi ngồi trên cái đài cao có thể thấy cả hai bên. Ngoài công việc thu tiền, người này c̣n có vai tṛ mách giúp những cặp vợ chồng trẻ hay người yêu khi người thứ hai đă tắm xong để họ cùng ra về. Trong nhạc phẩm Kandagawa, cô gái kể lại là “đă hẹn nhau cùng ra về nhưng lúc nào anh cũng bắt em đợi”. Người đời đặt câu hỏi tại sao anh chàng tắm lâu thế và đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích. Nhưng cũng có người cho rằng nhân vật kể chuyện là chàng chứ không phải nàng. 

Nhạc phẩm Kandagawa có hai lời nhưng mấy câu cuối là điệp khúc chung cho cả hai và đối với tôi, đây là phần ca từ đạt ư nhất. “Thưở ấy c̣n trẻ lắm, không có ǵ để sợ cả. Có điều, sự dịu dàng của anh đă làm em sợ”.  Người đời bàn tán nhiều về câu cuối này. Tại sao lại sợ? Có người giải thích là cô gái sợ hạnh phúc đang có sẽ bay xa, Quỳnh Chi trong bài thơ phỏng dịch cũng hiểu như vậy. Người khác th́ cho rằng nhân vật kể chuyện là chàng chứ không phải nàng, và chàng ở ngoài xă hội, tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên trong các năm 1968-1969 (chống Hiệp ước an ninh Nhật Mỹ, đ̣i hỏi được tự do hơn ở học đường, v.v..), chẳng sợ quyền lực hay thế lực nào nhưng về pḥng trọ th́ mềm ḷng v́ sự dịu dàng của người yêu.

Tôi th́ vẫn thích hiểu nhân vật kể chuyện là nàng, và sự dịu dàng luôn là thứ vũ khí dễ chinh phục ḷng người. Nhưng thôi để ca từ ấy ai hiểu thế nào cũng được, “cho ngh́n sau lơ lửng với ngh́n xưa”.

                                Tokyo, đầu Xuân 2014.

 

Sông Kanda

(Nhạc: Minami Kosetsu, Lời: Kitajo Makoto)

 

1.

Anh c̣n nhớ? Hay anh đă quên?

Nhớ những ngày ḿnh hay đi tắm đêm

Chiếc khăn đỏ em làm khăn quàng cổ

Hiệu tắm nghèo nàn cuối ngơ b́nh dân

 

Anh tắm lâu ra trễ rất nhiều lần

Để em đợi gió luồn vào tóc ướt

Chiếc chậu nhỏ trong tay rung từng chập

Bánh xà pḥng lăn khẽ dưới đáy thau

Anh ra sau, thương em lạnh đi mau

Tay siết chặt ôm nhau truyền hơi ấm

Thuở mới biết yêu chẳng sợ ǵ hay ân hận

Chỉ sợ t́nh ḿnh rồi sẽ xa xôi

 

2.

Có c̣n không? Hay anh đă vứt rồi

Hai mươi bốn chiếc bút màu tập vẽ

Chân dung em anh tô hoài vẫn thế

Chẳng giống chút nào như em vẫn hằng mong

Em lại ngồi yên để anh vẽ nhiều lần

Trên gác nhỏ trong căn pḥng ba chiếu

Bên song cửa dưới gầm cầu lặng lẽ

Sông Kanda vẫn xuôi ngược gịng đời

“Buồn không em” bàn tay sắp buông trôi

Anh khẽ nắm lấy tay em tŕu mến

Thuở mới biết yêu chẳng sợ ǵ hay ân hận

Chỉ sợ t́nh ḿnh rồi sẽ xa xôi

   Quỳnh Chi phỏng dịch ( 23/8/2003)