LỊCH SỬ BÓNG ĐÁ VIỆT NAM
(I): 1896-1975
Vơ Quang Hào
________________
Từ lâu, mỗi khi viết hoặc nói về bóng đá quốc tế, tôi vẫn ao ước sẽ có dịp giới thiệu lịch sử bóng đá Việt Nam. Nhưng v́ sinh sau đẻ muộn, xuất ngoại sớm, lại không chuyên ngành nghiên cứu, đành bó tay trước lỗ hổng tài liệu. May mắn gần đây được đọc một số bài báo trong nước trên Internet về đề tài này, đối chiếu thấy phù hợp với lời tường thuật của bố già (xưa cũng thuộc vào loại dân ghiền bóng đá), và với những ǵ c̣n lưu lại trong kư ức bản thân, tôi lạm phép tổng hợp thành bài viết dươi đây. Mặc dù có thể c̣n nhiều sai sót trong chi tiết (nhất là về tên riêng, các tài liệu sử dụng phần lớn có lẽ cũng chỉ xuất phát từ trí nhớ, lại có thể muốn tránh một số chữ cấm kỵ, hoặc ngược lại, hiện đại hoá quá lố một số từ), hy vọng nó đă tạo được một cái nh́n toàn bộ tương đối chính xác về bóng đá Việt Nam cho các độc giả yêu bộ môn thể thao này ở hải ngoại. Dù sao, xin chân thành cảm ơn các tác giả đă nêu danh trong phần tài liệu tham khảo.
________________
1) PHÁT TRIỂN NỘI BỘ
Theo những tài liệu c̣n lưu giữ được th́ bóng đá đă theo chân người Pháp du nhập vào nước ta vào khoảng năm 1896. Và tất nhiên, trước tiên là tại Nam Kỳ, sau mới lan ra Bắc và Trung.
a) Miền Nam
Những người chơi bóng đầu tiên ở Sài G̣n là người Pháp (công chức thuộc địa, thương gia, binh lính), và sân chơi của họ mỗi cuối tuần là công viên thành phố, tên Pháp lúc bấy giờ gọi là Jardin de la Ville (Vườn Ông Thượng, sân Tao Đàn bây giờ). Dần dà, những người Âu có điều kiện khác cùng tới chơi. Sau đó, một số ít người Việt Nam, công chức hoặc thương gia mang quốc tịch Pháp, cũng bắt đầu tham gia. Quả bóng bầu dục đôi khi c̣n xuất hiện lúc đầu được thay hẳn bằng bóng tṛn, và họ tập hợp nhau lại thành câu lạc bộ, lấy tên là Cercle Sportif Saigonnais. Năm 1905, đội bóng của chiến hạm Anh mang tên King Alfred ghé thăm Sài G̣n, và đă đấu giao hữu với một đội Pháp Việt; đây là trận bóng quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Năm 1906, E. Breton, một uỷ viên Pháp trong L'Union des Sociétés Francaises des Sports Athlétiques (1) đem luật lệ bóng đá sang Việt Nam phổ biến, và trong vai tṛ Hội Trưởng, chấn chỉnh lại Cercle Sportif Saigonnais theo cách tổ chức của các câu lạc bộ bóng đá bên Pháp. Nhiều câu lạc bộ khác được bắt chước thành lập và hoạt động, như Infanterie, Saigon Sport, Athletic Club, Stade Militaire, Tabert Club... Các giải bóng đá cũng bắt đầu được tổ chức từ đấy.
Do được tổ chức, huấn luyện có qui củ hơn, Cercle Sportif Saigonnais liên tiếp thắng nhiều mùa giải: 1907, 1909, 1910, 1911, 1912, 1916... Dân ta rất nhạy cảm với bóng đá, sớm yêu thích và tự thấy ḿnh cũng có thể chơi bóng đá giỏi nên bắt chước; học sinh, thợ thuyền, công chức rủ nhau chơi, dù trong điều kiện cực kỳ khó khăn, nhất là về sân băi. Nhưng chỉ trong vài năm, nhiều người Việt đă nắm được luật lệ và kỹ thuật bóng đá nên tự lập đội bóng của ḿnh, lấy tên là Gia Định Sport (đội bóng Việt Nam đầu tiên, thành lập năm 1907, do các ông Ba Vẻ, Phú Khai dẫn dắt, sau nhập một với đội Ngôi Sao Xanh (Etoile Bleue) của ông huyện Nguyễn Đ́nh Trị, thành Ngôi Sao Gia Định). Từ năm 1920 th́ ta đă có nhiều cầu thủ hay. Ngôi Sao Gia Định đă thắng tất cả các đội bóng khác mà số đông là đội người Âu, kể cả đội Cercle Sportif Saigonnais của ông Breton (1917), giành Cúp vô địch. Suốt thập kỷ 1925-1935, đội Ngôi Sao đă lừng danh với một thế hệ cầu thủ c̣n được nhiều người nhắc nhở cho đến nay: Sách, Thơm, Nhiều, Quư, Tịnh, Xường, Trung, Thi, Vi, Mùi, Tiếc, Rớt, Tài, Út, Danh, Giỏi, E. Quang... Sang thập kỷ 1945-1954, đội Gia Định c̣n tiếp tục ngự trị trên bóng đá Nam Kỳ với một thế hệ cầu thủ xuất sắc khác: Maurice Tài, Coón, Lư Đức, Quới, Hiếu, Thọ 2, Tư, Mai, Mỹ, Thách, Thọ Ve, Bùi Nghẻn, Khê…
Cũng trong thập kỷ 1920, tự thấy ḿnh có thể đứng độc lập được, giới hâm mộ và những nhà dẫn dắt hợp tác thành lập một Tổng Cuộc Bóng Đá An Nam riêng cho người Việt, bầu ông Nguyễn Đ́nh Trị làm Trưởng Ban Trị Sự, và mua đất làm sân riêng. Lúc ấy đă có một Tổng Cuộc Bóng Đá do người Pháp chủ tŕ, nên việc hợp tác giữa hai Tổng Cuộc không thể tốt đẹp. Dù vậy, hai bên vẫn phải hợp tác tổ chức những cuộc thi đấu, như Giải Vô Địch Nam Kỳ chẳng hạn. Về các đội bóng miền Nam lúc ấy, ngoài Ngôi Sao Gia Định, trong vùng Sài G̣n c̣n có Victoria Sportive, Commerce Sport, Jean Comte, Sport Cholonaise, Khánh Hội Sport, Tân Định Sport, G̣ Vấp, Hiệp Hoà, Chợ Quán, Phú Nhuận, Đồng Nai,…; ở các tỉnh có: Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, G̣ Công, Châu Đốc, Mỹ Tho... C̣n về sân, phải kể đến các sân Vườn Ông Thượng (tức sân Tao Đàn), sân Citadelle (tức sân Hoa Lư), sân Renault (sau đổi thành sân Cộng Hoà, tức sân Thống Nhất ngày nay); một số khác chỉ c̣n trong kư ức như các sân Fourières (ở Bà Chiểu, gần lăng Lê Văn Duyệt), Mayer (góc đường Vơ Thị Sáu - Trần Quốc Thảo ngày nay), và Marine (ở gần Trung Tâm Mắt Thành Phố hiện nay)... Trên các sân này, đă xuất hiện bao thế hệ cầu thủ bóng đá Việt Nam mà tên tuổi vẫn c̣n lưu măi trong kư ức tập thể của giới mộ điệu.
Trong trận tranh giải vô địch nẩy lửa giữa Cercle Sportif Saigonnais và Ngôi Sao Gia Định năm 1925, việc trọng tài người Pháp đuổi cầu thủ Paul Thi ra khỏi sân sau một cuộc xô xát, khiến cầu thủ này của đội Ngôi Sao bị treo gị vĩnh viễn sau đó, càng làm cho việc hợp tác Việt Pháp thêm khó khăn. Giải Vô Địch Nam Kỳ bị gián đoạn trong nhiều năm, và chỉ bắt đầu lại năm 1932, với 6 đội người Việt và 3 đội người Pháp. Tuy vậy, từ 1925 đến 1935 cũng có đến khoảng 29 giải bóng đá đủ loại được tổ chức, Gia Định một ḿnh đăng quang hết 8 lần, xác định vai vế vua bóng đá miền Nam một thời, số c̣n lại chia đều cho các đội Victoria Sportive, Khánh Hội, Cercle Sportif Saigonnais, Jean Comte, Auto-Hall (Nam), Commerce Sport, Thủ Dầu Một… Ngoài các giải, cúp khá rầm rộ tại Sài G̣n và ở các tỉnh, Tổng Cuộc Bóng Đá An Nam c̣n tổ chức tiếp đón nhiều đội bóng nước ngoài, và cử đội tuyển đi thi đấu tại Thái Lan, Campuchia, Malaysia,... Cao trào ấy đă làm môn thể thao vua này lan rộng ra cả nước. Đi đến đâu, bóng đá cũng được dân ta hưởng ứng, luyện tập, và tham gia nhiệt t́nh.
Thuở ấy bóng đá chưa thành nghề mưu sinh, và người chơi bóng chỉ xem đây là một thú tiêu khiển, và tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe là chính yếu. Đa phần cầu thủ đều sống đạm bạc, đi bộ hay đón xe thổ mộ đến sân tập dượt; thỉnh thoảng mới được các chủ hội cho vài cắc ăn hủ tiếu, uống cà phê khi đá thắng. Một khía cạnh lư thú khác: mặc dù là cội nguồn bóng đá của cả nước, Sài G̣n chưa có bóng đá nữ. Khoảng năm 1932, ở miệt Cần Thơ mới xuất hiện đội bóng nữ Cái Vồn do ông bầu Sửu thành lập (kỹ sư canh nông Phan Khắc Sửu, sau làm tổng thống VNCH khoảng 1964-1965; c̣n Cái Vồn là đội nữ đầu tiên của Việt Nam và có thể của cả Á Châu nữa!). Vài năm sau, có thêm đội Bà Trưng ở miệt Rạch Giá - Long Xuyên. Vào những dịp lễ Tết, các đội này kéo «gánh» lên Sài G̣n... biểu diễn. Một kỳ tích: năm 1933, đội nữ Cái Vồn thi đấu với đội nam Paul Bert tại sân Mayer, và thủ ḥa 2-2!
b) Miền Bắc và Trung
Ở miền Bắc, cho đến năm <span style="font-family: VPS Quang Duc; font-size: 12pt"> khoa 1900, ba môn thể thao mà người Pháp thường chơi và được báo chí nói đến là đua ngựa, đấu kiếm và ném quả lăn. Như vậy, bóng đá có lẽ đă chỉ xâm nhập vào đất Bắc khoảng 1906-1907, sau tiếng vang do cuộc viếng thăm của đội King Alfred ở Sài G̣n. Ngày 22-12-1909, tờ báo tiếng Pháp Tương Lai Bắc Kỳ (L'Avenir du Tonkin) mới viết vài ḍng về trận đấu giữa đội bóng Lê Dương Đáp Cầu (Legion Đáp Cầu) và đội Olympique Hải Pḥng (đội Hải Pḥng khi đó bao gồm cả cầu thủ người Pháp lẫn người Việt), với mấy ḍng tường thuật như sau: «Trận đấu diễn ra sôi nổi khiến khán giả rất thích. Các cầu thủ Đáp Cầu chơi có phần hay hơn, nhưng Hải Pḥng chơi cũng chặt chẽ, lại không biết dùng đầu. Hai bên biểu diễn ḥa nhă, không kêu hét ầm ỹ. Trọng tài công bằng. Cuối cùng Hải Pḥng thắng: 2-1». Nhưng ở trận phục thù, cũng tờ Tương Lai Bắc Kỳ ngày 30-1-1910 cho biết Lê Dương Đáp Cầu đă thắng lại đội Hải Pḥng 8-1, ngay trên sân Hải Pḥng. </span>
<span style="font-family: VPS Quang Duc; font-size: 12pt">Riêng ở Hà Nội, tháng 2 năm 1912, một Câu Lạc Bộ Bóng Đá Hà Nội (Stade Hanôien) cũng ra đời, bao gồm các đấu thủ người Việt và một số người Pháp như Menin, Megy, Bernard, Bonardi... Về phía quân đội Pháp, họ có Trung Đoàn Bộ Binh Thuộc Địa (Régiment d’Infanterie Coloniale, RIC), Ngôi Sao Xanh (Étoile Bleue), Lê Dương Đáp Cầu, Lê Dương Việt Tŕ, và một vài đội nữa. Trung Đoàn Bộ Binh Thuộc Địa có tŕnh độ khá cao, với nhiều cầu thủ c̣n để lại tiếng tăm lâu dài như Luier, Lauroix, Marinelli, Beye. Ngày 1-11-1913, trận cầu giữa Câu Lạc Bộ Bóng Đá Hà Nội và Trung Đoàn Bộ Binh Thuộc Địa đă lôi cuốn được gần 3000 khán giả, kết quả đội bộ binh Pháp thắng 5-3.
Trong hai thập kỷ 1910-1920, các đội bóng của người Việt phát triển mạnh. <span style="font-family: VPS Quang Duc; font-size: 12pt">Mới đầu chỉ là những đội chân đất do học sinh các trường đi tiên phong. Bóng dùng là bóng cao-su mầu trắng mua từ các cửa hàng người Hoa, Việt hoặc Nhật. Nhiều khu phố cũng có đội bóng riêng. Hà Nội thuở ấy chỉ có khoảng trên dưới 10 vạn dân, các trận giao hữu thường diễn ra ở mọi băi trống, thậm chí cả trên các ngă ba, ngă tư phố vắng, đặc biệt là gần Nhà thương Đồn Thủy (bệnh viện Hữu Nghị hiện nay) hoặc trước Trường Hàng Kèn (Quang Trung hiện nay), đường Gambetta (Trần Hưng Đạo hiện nay)... Sau này, để có sân chơi tương đối đúng kích thước cho các giải chân đất và chân giày của người Việt, Đội Chớp Nhoáng (Eclair) và Câu Lạc Bộ Bóng Đá Hà Nội mới hợp tác lập ra sân Nhà Dầu (gần kho xăng hăng Shell, sát cầu sông Cái, nay là cầu Long Biên). Riêng sân Mangin (sân Hàng Cỏ, nay gọi là sân Cột Cờ) có kích thước chính xác nhất, thuộc về nhà binh Pháp quản lư và chỉ được dùng cho các giải thi đấu chân giày chính thức. Chính trên sân Mangin, một giải vô địch bóng đá riêng cho Bắc Kỳ đă được tổ chức lần đầu vào khoảng 1918-1919, với không khí tưng bừng của ngày lễ hội: một tiểu đội quân nhạc vừa đi vừa thổi kèn quanh sân, sau đó trận bóng mới bắt đầu. Lúc đầu khán giả vào xem không mất tiền; về sau, ban tổ chức mới kê bàn ngăn bốn đường vào sân bán mỗi vé một hào.</span>
Đấy là về </span>sân chơi. <span style="font-family: VPS Quang Duc; font-size: 12pt">Về các đội bóng, những năm cuối thập niên 1930 đầu 1940 là đỉnh cao của bóng đá Việt Nam thời kỳ đầu, cả về phong trào cũng như thành tích. Thời kỳ này hầu như tỉnh nào cũng có một đội bóng, từ Bắc vào Trung, không kể Nam Bộ là nơi khởi thủy. Ở phía Bắc, ngoài Chớp Nhoáng (do nhà mạnh thường quân, kiêm tiền vệ nổi danh Trần Văn Quư cầm đầu) và Câu Lạc Bộ Bóng Đá Hà Nội, c̣n phải kể đến Racing Club, Lạc Long Ngọn Giáo (La Lance), Hoả Xa (Usaga), Trường Bưởi (Chu Văn An hiện nay), Đại học (Université Club), Ngân Hàng, Ô-tô Han (Auto Hall)…ở Hà Nội, Voi Vàng Đất Cảng, Olympique Hải Pḥng, Mũi Tên (La Flèche), Radium (Trung Học), Thanh Niên Bắc Kỳ (La Jeunesse Tonkinoise) ở Hải Pḥng, Hồng Bàng ở Nam Định, Phủ Lư Thể Thao ở Phủ Lư, đến như Lạng Sơn là một địa đầu biên giới miền núi cũng có Le Semeur. Miền Trung cũng có ASNA Vinh, Sept Huế, Touranne, Faifo Cheminot Nha Trang.
c) Hữu nghị Đông Dương
Năm 1931<span style="font-family: VPS Quang Duc; font-size: 12pt"> , nhận lời mời của Tổng Cuộc Bóng Đá ở Sai Gon, các đội Chớp Nhoáng ở Hà Nội và Thanh Niên Bắc Kỳ ở Hải Pḥng là những đội đầu tiên từ miền Bắc đi xe hơi vào Nam thi đấu giao hữu; chuyến «nam du» vô cùng vất vả và chật vật (Ngôi Sao Gia Định hạ Chớp Nhoáng 5-0, Victoria Sport thắng Thanh Niên Bắc Kỳ 1-0), nhưng có tác dụng chắp nối nhịp cầu thể thao Bắc - Nam rất lớn.
Năm 1936, khi khánh thành đường xe lửa Đông Dương, Thứ Trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp Léo Lagrange đă có điều kiện tổ chức lần đầu tiên một cuộc thi đấu gồm 5 đội tuyển: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Campuchia (lúc đầu mang tên là Giải Léo Lagrange, sau đổi thành Giải Pétain, rồi Giải Vô Địch Bóng Đá Đông Dương). Từ đấy, cuộc thi đấu tranh giải trở thành truyền thống hàng năm, khi hội đủ điều kiện. Cũng vào khoảng thời gian này, thế chiến thứ hai bùng nổ. Mặt Trận Việt Minh ra đời và công khai vận động nhân dân đứng lên giành độc lập. Nhà cầm quyền Đông Dương khởi xướng phong trào Khoẻ Để Phụng Sự, giao cho đại tá Ducouroy tổ chức Giải Vô Địch Bóng Đá Đông Dương, hầu lôi kéo một bộ phận thanh niên thành thị lao vào thể thao mà xa lánh chính trị. Cùng với nhiều bộ môn thể thao khác như bóng bàn, đua xe đạp, đấu quyền Anh,... bóng đá cũng đă thừa cơ phát triển rộng khắp, và đạt được nhiều kết quả khả quan. Nhưng từ 1945 trở đi, do t́nh h́nh chính trị khẩn trương và sau đó là chiến tranh, việc tổ chức cũng như tŕnh độ bóng đá đều đ́nh trệ và xuống cấp.
Riêng về Giải Vô Địch Bóng Đá Đông Dương, có thể ghi lại kết quả của 4 năm đầu:
Lần 1, 1941, Hà Nội : Nam Kỳ hạ Trung Kỳ 4-2, đoạt chức vô địch.
Lần 2, 1942, Huế : Nam Kỳ hạ Bắc Kỳ 3-2, giữ chức vô địch.
Lần 3, 1943, Pnôm Pênh : Nam Kỳ hạ Trung Kỳ 1-0, giữ chức vô địch.
Lần 4, 1944, Pnôm Pênh : Bắc Kỳ hạ Nam Kỳ 3-0, giành chức vô địch.
2) THÀNH TÍCH QUỐC TẾ
Nếu như những năm đầu thập kỷ 1930, đội bóng Nam Hoa của Hồng Kông thắng các đội Việt Nam dễ dàng, và trung phong Lư Huệ Đường đă ngạo mạn nhận xét «bóng đá An Nam như ếch ngồi đáy giếng» làm sôi máu làng cầu nước ta th́ chỉ mấy năm sau, cùng với đội h́nh chưa mấy đổi thay, Lư «Cầu Vương» và các đồng đội Phùng Cảnh Tường, Lê Triệu Vinh đă hết qua nổi các hậu vệ Cao Hoài Cúi, Nguyễn Hữu Đước, Trương Tấn Bửu của đội An Nam. Ngược lại, hậu vệ Lưu Khánh Tài, Lư Thiên Sanh của Nam Hoa không cản được cặp Tiền - Tốt phá lưới, buộc thủ môn Bảo Gia B́nh của Nam Hoa phải nhiều lần vào cầu môn nhặt bóng. Năm 1938, Nam Hoa thua đội Tuyển Nam Kỳ 1-2 tại Gia Định. Tháng 5/1938, sang thi đấu tại Hồng Kông, Tuyển Nam Kỳ thắng Tuyển Hồng Kông 4-0, hoà Nam Hoa 1-1, thắng Hải Quân Anh 6-2, thắng Quân Đội Anh ở đó 3-0, sang Philipin thắng Létan 4-0, và La Salle (đương kim vô địch Philipin) 3-0...
Sau đó là Thế Chiến thứ hai, rồi chiến tranh Việt - Pháp; và tất nhiên là chiến tranh đă làm nền bóng đá Việt Nam dậm chân tại chỗ. Về thành tích chung cả nước th́ năm 1951, một đội Tuyển Việt Nam (với thành phần gồm Quyền, Quới, Waico, Vẹn, Thọ 2, Tư, Mỹ, Cưỡng, Hiếu, Trọng, Đức của miền Nam, Hiệt của miền Trung, Thọ Ve, Ứng, Hợi, Khuê của miền Bắc)... được phép đi thi đấu giao hữu ở Algeria, Pháp (thua Nice 1-4, Rouen 1-3) và Thụy Điển (thua Stockhom 1-4). Cho đến năm 1954, thành tích quốc tế chính thức duy nhất (đồng thời có thể xem như đầu tiên và cuối cùng) của đội Tuyển Quốc Gia Việt Nam thời Pháp thuộc là tham dự Á Vận Hội lần thứ hai được tổ chức tại Manila (Philipin), dù không vượt thoát nổi ṿng loại (thắng Philipin 3-2, thua Đài Loan 1-2). Mặt khác, cột mốc đáng ghi nhớ nhất ở đây nằm ngoài lănh vực thể thao: trong khi thi đấu th́ hiệp định Genève được kư kết, đất nước tạm thời chia đôi, nên đội Tuyển Việt Nam (với thành phần: Lâm Kinh, Quí, Quới, Pierre Nhung, Thọ, Hiếu, Maurice Tài, Myo Hồ, Coón, Mỹ, Thách, Phải, Đức, Tư, Chạc của miền Nam, thêm Ứng, Hợi, Khê từ miền Bắc) vừa về đến Sài G̣n th́ số phận đă tan tác theo vận mạng của đất nước!
Nhưng cũng từ năm 1954 trở đi, khi hoà b́nh được lập lại phần nào sau hiệp định Genève, phong trào bóng đá ở cả hai miền mới được phục hồi và nhanh chóng phát triển trở lại, dù trong điều kiện đất nước chia đôi và sau đó là chiến tranh lần nữa.
Ở miền Bắc, đội bóng đá Thể Công, ra đời từ phong trào thể thao của QĐNDVN và được chính thức thành lập ngày 23/9/1954, thi đấu và phát triển mỗi ngày một mạnh, nhiều năm đoạt chức vô địch. Năm 1960, do yêu cầu xây dựng «mũi nhọn đỉnh cao», Trường Huấn Luyện Thể Dục Thể Thao Trung Ương được thành lập. Đội Tuyển Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thời đó (thực chất là lấy Trường Huấn Luyện quốc gia làm ṇng cốt, phối hợp cùng Thể Công) được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc, Đức... đă đạt được thành tích cao ở các giải Galefo (Indonesia, 1963) và Galefo Châu Á (Campuchia, 1966), và trong các cuộc thi đấu thuộc khu vực cộng đồng các nước xă hội chủ nghĩa, đương đầu ngang ngửa với các đội mạnh như đội Tuyển Trung Quốc, Tuyển Triều Tiên, có lần c̣n thắng cả đội Tuyển Trẻ Liên Xô tại Mascova. Lớp cầu thủ: Thọ, Long, Phàn, Ngọc, Chính, Vinh, Từ Hiển, Hùng (xồm), rồi tiếp đến lớp Khánh, Giáp, Thế Anh thực sự đă đạt được những bước tiến dài, đáng tự hào của bóng đá miền Bắc Việt Nam.
Trong Nam, bóng đá cũng phát triển mạnh suốt thời gian ấy, làm cho các nước trong khu vực phải kính nể. Vào cuối thập kỷ 1950, đội Tuyển Việt Nam Cộng Hoà đă trở thành 1 trong 4 «cường quốc bóng tṛn Châu Á», khi lọt vào ṿng chung kết giải Vô địch Á Châu 1960 cùng với Nam Hàn, Ấn Độ, Trung Hoa Quốc Gia (do Hồng Kông đại diện). Cựu «Đại Vương Túc Cầu» Lư Huệ Đường, huấn luyện viên của đội tuyển Hồng Kông, kẻ trong thập niên 1940 đă từng trịch thượng chê «bóng đá An Nam như ếch ngồi đáy giếng», bây giờ phải công nhận rằng đội Việt Nam có lối đá huê dạng nhất trong các đội Châu Á, và các cầu thủ Việt Nam là những thuật sĩ bóng tṛn trên sân cỏ. Một chứng cớ khác: khi ghé Sài G̣n để đá giao hữu với đội Tuyển Việt Nam Cộng Hoà năm 1959, nhà d́u dắt đội Tuyển Nhật Bản đă tặng cho Tổng Cuộc Bóng Đá Việt Nam một đôi giầy nhỏ trước khi thi đấu, với ư nghĩa tŕnh độ bóng đá của Nhật chỉ như đôi giầy nhỏ này so với Việt Nam, mong rằng sau các lần thi đấu, Nhật sẽ học hỏi được nhiều bài học quí giá từ một làng bóng có tiếng ở Châu Á. Song chỉ 5 năm sau, bóng đá Nhật không c̣n là đôi giầy nhỏ nữa.
Từ năm 1960 đến năm 1966, Việt Nam Cộng Hoà thường được xếp hạng từ thứ ba đến thứ nhất trong các giải bóng đá tại Châu Á. Một trong những sự kiện đáng ghi nhớ nhất của lịch sử thể thao Việt Nam là đội Tuyển Việt Nam Cộng Hoà, dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên Weigang người Đức, đă đoạt Cúp Merdeka lần thứ 10 do Malaysia tổ chức năm 1966, với sự tham dự của 12 đội bóng của 12 nước. Giải này ra đời từ năm 1957, do sáng kiến của Thủ Tướng Malaysia Abdul Rahman (vốn là cựu hậu vệ của đội tuyển quốc gia, và Merdeka có nghĩa là Độc Lập), lúc bấy giờ đă trở thành một giải bóng đá quốc tế hàng năm rất có uy tín trên khắp lục địa.
Về nội bộ, năm 1954 cũng đánh dấu một thay đổi lịch sử khác là sự mất máu của Ngôi Sao Gia Định. V́ nhiều lư do khác nhau, nhóm cầu thủ đă làm rạng danh bộ áo màu xanh đen với ba sọc ngang và ngôi sao trên ngực trái mỗi người bỗng đi một ngả, song chủ yếu là về đầu quân cho AJS (Association de la Jeunesse Sportive), hoặc Cảnh Sát. Cùng với hai đội khác là Tổng Tham Mưu (TTM) của Quân Đội và Quan Thuế ít lâu sau, bốn đội này luân phiên thống trị bóng đá miền Nam cho đến năm 1975. Năm 1968, khi giải Vô Địch Á Châu Các Câu Lạc Bộ (Asian Club Championship, C1) được tổ chức lần thứ 2 tại Bangkok, đội AJS đại diện cho VNCH đă sang dự thi, hoà với Bangkok Bank (Thái Lan), và Mysou State (Ấn Độ) 1-1, hạ Lions (Philipin) 6-1, thắng Yangzee (Đại Hàn) 5-3, chung cuộc đứng thứ 5 trong số 10 đội tham dự.
Nói tóm lại, dù ở mức độ quốc gia hay câu lạc bộ, bóng đá cả hai miền đều phát triển khả quan. Riêng trong Nam, nền bóng đá VNCH đă nghiễm nhiên trở thành một cường quốc trong vùng Đông Nam Á, và đang trên đường chinh phục toàn bộ lục địa th́ bị gián đoạn.
____________
(1) Liên Đoàn Bóng Đá Pháp (Fédération Française de Football) chỉ ra đời vào năm 1919. Trước đấy, Pháp có nhiều tổ chức quản lư bóng đá, như L'Union des Sociétés Francaises des Sports Athlétiques (Liên Hiệp Các Câu Lạc Bộ Thể Thao Điền Kinh Pháp) gần với quân đội, và Fédération Gymnastique et Sportive des Patronages de France (Liên Đoàn Thể Dục Thể Thao Của Các Thánh Bổn Mạng Pháp) thuộc Nhà Thờ Kitô Giáo chẳng hạn.
***
Anh Thuận. Bóng đá Việt Nam và những cột mốc đáng nhớ (1930-1975). Thể Dục Thể Thao TPHCM, số 97-98. Địa chỉ truy cập: http://www.cangsaigon.com.
Anh Thuận. Ngôi Sao Gia Định: đội bóng huyền thoại được thành lập sớm nhất ở Việt Nam. Thể Dục Thể Thao TPHCM, số 115. Địa chỉ truy cập: http://www.cangsaigon.com.
Vũ Hoàng. Những ngày đầu của bóng đá Việt Nam. Thể Thao Việt Nam. Địa chỉ truy cập: http://www.cangsaigon.com.
Bóng đá Việt Nam - buổi sơ khai. Địa chỉ truy cập: http://www.cangsaigon.com.