Khoa học – Lịch sử

C1

Lịch sử của khoa học

hữu ích cho ngay chính

sự tiến bộ của khoa học

Tác giả : Paul Langevin*

Người dịch : Nguyễn Văn Khoa

Thời c̣n là sinh viên tại Ecole Normale (Trường Sư phạm)*, tôi đă phải làm một bài giảng về nước oxy già (l’eau oxygénée)[1], như chúng tôi đều vẫn phải lần lượt làm. Sách giáo khoa – loại «giáo lư» đáng ngưỡng mộ của khoa học thực nghiệm – đă cho biết mọi đặc tính vật lư của nó, cũng như những phản ứng mà chất thể này có thể tạo ra, v. v… Nhưng tôi lại có ư tham khảo các báo cáo khoa học của Thénard* là người đă khám phá ra nước oxy già kia! Đọc những trước tác đáng ngưỡng mộ này – dù tuổi đă hơn một thế kỷ mà ngay cả ngôn từ sử dụng vẫn c̣n là yến tiệc thực sự –, tôi chợt nhận ra rằng những điều thú vị nhất, đặc biệt là cách Thénard đă được đặt lên con đường khám phá, cũng như những suy tư rất sâu sắc và rất thời sự của ông về cơ chế oxy hóa, đều bị bỏ qua một cách cẩn thận trong loại thông tin gián tiếp mà chúng ta thường nhận được ngày nay. Những ǵ đă thấm qua được sự gạn lọc của nhiều thế hệ tác giả sách giáo khoa ít thú vị hơn nhiều. Khổ thay, nó lại quá thường khi là như vậy; tốt hơn là nên quay lại đầu nguồn, tiếp xúc càng thường xuyên và đầy đủ càng tốt, với những người đă làm ra khoa học, những kẻ hơn ai hết đă định h́nh khía cạnh sống động nhất của khoa học.

Ví dụ điển h́nh thứ hai được cung cấp bởi một vấn đề đă thu hút được rất nhiều ṭ ṃ của quần chúng: đó là thuyết tương đối. Trong lĩnh vực này, lư thuyết về kinh nghiệm đưa ta đến kết luận rằng h́nh học thông thường (h́nh học của Euclid) không phải là thứ duy nhất, cũng không phải là thứ hiệu quả nhất để biểu thị thế giới bên ngoài, rằng c̣n có những thứ h́nh học khác nữa, vừa đơn giản hơn, vừa hữu hiệu hơn nhiều trên thực tế, bất chấp bề ngoài của chúng. Như vậy, các công tŕnh của Lobachevsky, Bolyaï, Riemann đă dẫn tới sự xây dựng những h́nh học phi Euclid vô cùng phong phú hơn về năng lực, mà cũng không kém nghiêm ngặt hơn, so với h́nh học cổ điển. Và điều mà những kẻ thừa kế của Euclid đă vạch ra khiến ta nghĩ rằng người sáng lập chính của môn h́nh học cổ điển đă có thể nhận thức được, và nhận thức tốt hơn những nhà b́nh luận của ông rất nhiều, những khó khăn được phơi bày trong vấn đề nền tảng của môn h́nh học và tính độc đoán của định đề nổi tiếng của ông, theo đó, từ một điểm ta luôn luôn có thể kẻ một đường song song với một đường thẳng, và chỉ một mà thôi. Dựa vào đấy, người ta đă có thể tránh không biết bao nỗ lực vô ích nhằm chứng minh định đề này.

Để chống lại chủ nghĩa giáo điều, điều rất bổ ích là ghi nhận rằng những người đặt nền tảng cho các lư thuyết mới đều nhận thức được những điểm yếu, những thiếu sót trong các hệ thống của họ, nhiều và tốt hơn biết bao lần những kẻ kế tục và b́nh luận họ. Nhưng sự dè dặt của họ sau đó bị lăng quên, và những ǵ đối với họ là giả thuyết đều bị giáo điều hóa, càng rời xa nguồn gốc càng trở thành bất khả xâm phạm, đến nỗi rằng khi những hậu quả ít nhiều xa xôi của các ư tưởng mà người ta đă quên mất tính chất tạm bợ và bấp bênh bị những kinh nghiệm mới phủ nhận, một nỗ lực hung bạo để rũ bỏ chúng trở thành cần thiết.

Một ví dụ đáng chú ư của sự lăo hóa và chai cứng do  bị giáo điều hóa này của các lư thuyết là quan niệm của Newton về lực hấp dẫn. Sau suốt hai thế kỷ trải nghiệm một sự thành công không thể chối căi qua  việc tạo dựng nền cơ học thiên thể cổ điển tuyệt vời, ngày nay quan niệm trên phải bị từ bỏ, v́ không c̣n tương thích với những kết quả thực nghiệm ngày càng chính xác hơn. Nhưng không phải là dễ dàng, không gặp sự kháng cự.

Thay v́ làm như Newton là giải thích những chuyển động phức tạp của các v́ sao bởi sự tồn tại của những lực hấp dẫn tác động từ xa  giữa các vật thể di động trong một không gian không thay đổi của Euclid, lư thuyết mới của thuyết tương đối thừa nhận rằng, chỉ bởi sự hiện diện của ḿnh, mỗi cơ thể thay đổi các tính chất của không gian và thời gian xung quanh, uốn cong không-thời gian, khiến sự vận động bộc phát của các cơ thể lân cận cũng bị thay đổi như là kết quả của sự biến dạng này [...].

Tuy nhiên, khi tham khảo những công tŕnh của Newton, ta thấy rằng ông ta do dự nhiều hơn là người ta có thể nghĩ khi đọc những kẻ tưởng rằng họ đă có thể cung cấp cho học thuyết của ông một tính cách dứt khoát. Ông đề xuất lực hấp dẫn từ xa như một giả thuyết nhằm phơi bày các sự kiện mà ông không hề giấu giếm những khó khăn diễn giải. Trước sự thành công của giả thuyết này, chính những đệ tử của ông đă khoác cho nó một bộ áo giáo điều vượt quá tư tưởng của tác giả, và khiến cho sự thoái lui trở thành khó khăn hơn. Một lối giảng dạy có tính lịch sử hơn, năng động hơn về cách thích nghi tư tưởng vào sự kiện (c̣n rất thiếu sót ngày nay), một cố gắng làm tinh thần mềm mỏng hơn, nhờ sự tiếp xúc trực tiếp hơn với lối suy nghĩ của các vĩ nhân, sẽ giúp tránh được nhiều do dự cũng như thành kiến trước những ư tưởng mới lạ.          

Tóm lại, trở về nguồn chính là làm rơ những ư tưởng, giúp khoa học thay v́ làm nó tê liệt. Chính nỗ lực để viết ra một «lịch sử» của khoa cơ học – nỗ lực được Mach, nhà bác học ở Vienna, thử nghiệm thành công cách đây bốn mươi năm – đă được sử dụng như khởi điểm cho  những suy tư của Einstein, và cho sự triển khai các quan điểm mới.

Paul Langevin

La valeur éducative de l'histoire des sciences

(Giá trị Giáo dục của Lịch sử Khoa học), 1926

(Tài liệu in lại bởi Hiệp hội Paul Langevin, năm 1960)



[1] Tên khác: Hydrogen peroxide = peroxyde d’hydrogène = hyđrô pêroxit = H2O2.