Triết gia

Sôkratês Nhân cách

C1

CHÂN DUNG TRIẾT GIA (II)

KẺ CẦU T̀M CHÂN LƯ

Tác giả: Platôn

Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Trích dịch từ Apology of Socrates [20e-23c], theo bản tiếng Anh của Benjamin Jowett*, có đối chiếu với bản tiếng Pháp của Victor Cousin*.

«Khi (Vua) Leon xứ Phleious hỏi Pythagoras* ông là ǵ, Pythagoras so sánh sinh hoạt của người đời với các màn vận động ở Olympia*, và nói rằng có những người đến đây để dự các môn thi, có người đến để mở cửa hàng, người khác đến để xem. Triết gia là loại người đến để xem. Lối sống của người đời cũng giống như thế: kẻ v́ của cải, lợi lộc; kẻ khác v́ chiến thắng, danh vọng; trong khi triết gia chỉ yêu hiểu biết, chân lư»[1]. Triết gia là người yêu-hiểu biết (philo-sophos).

Cả cuộc đời của Sôkratês là một minh họa sống động cho định nghĩa này. Khi biết được câu thần dụ ở đền Delphoi* cho rằng Sôkratês là kẻ hiểu biết nhất, Ông đă dành cả phần đời c̣n lại để t́m hiểu ư nghĩa của câu thần dụ, t́m biết sự thật.

*

a – Một danh nghĩa cần kiểm chứng

Ở đây nữa, thưa quư công dân Athenai, xin đừng lao nhao ngắt lời tôi, nếu quư vị thấy rằng tôi nói về ḿnh quá đỗi tự phụ; bởi v́ những lời tôi sắp nói ra đây không xuất phát từ tôi mà từ một quyền uy đáng cho quư vị tin cậy hơn nhiều. Để xác nhận sự hiểu biết của Sôkratês, tôi xin dẫn chứng lời phán của vị Thần[2] ở đền Delphoi[3], Ngài sẽ nói cho quư vị biết tôi có phải là người hiểu biết chăng, và kiến thức ấy là ǵ. Trong cử tọa chắc là ai cũng biết Chairephôn,  [21a] bạn từ thời thơ ấu của tôi, đồng thời là một công dân tốt, kẻ đă cùng đi đày và cùng hồi hương với quư vị[4]. Biết rơ Chairephôn, quư vị c̣n lạ ǵ nhiệt t́nh mà ông ta đặt vào mọi việc. Một hôm, khi ghé viếng đền Delphoi, Chairephôn bỗng đánh bạo thỉnh ư Thần xem trên đời này c̣n có người hiểu biết hơn Sôkratês chăng đến đây, một lần nữa tôi lại phải xin quư vị chớ x́ xào khó chịu khi nghe tôi nói , để được nghe vị đồng cô[5] ở đền trả lời rằng không có ai cả. Về lời đáp này, dù Chairephôn nay không c̣n nữa, em ruột của ông ta[6] có thể xác nhận với quư vị ngay tại đây.

[21b] Thưa quư công dân Athenai, bây giờ hăy xét xem v́ sao nay tôi lại kể chuyện ấy ra ở đây chỉ v́ tôi muốn quư vị nh́n thấy bao lời ong tiếng ve mà người ta đồn thổi cho Sôkratês bắt nguồn từ đâu. Khi biết câu trả lời của Thần, tôi chợt thắc mắc: thần dụ này muốn nói chi, mang ẩn nghĩa[7] ǵ? Bởi v́ tôi thừa biết rằng ḿnh chẳng mảy may có chút tri thức nào, dù là nhỏ mọn hay to tát. Vậy th́ Thần muốn nói ǵ, khi phán rằng Sôkratês là kẻ hiểu biết nhất? Chắc chắn là Ngài không thể nói dối; dối trá là điều hoàn toàn trái ngược với bản chất của thần thánh. Hoang mang tột độ về ư nghĩa của lời phán như thế khá lâu, sau bao lần do dự, cuối cùng tôi đành quyết định phải tự t́m hiểu ư Thần. Trộm nghĩ nếu t́m được một người giàu tri thức hơn ḿnh, lúc ấy tôi có thể thưa lại với Thần: «Đây là người thông thái hơn tôi, thế mà Ngài lại dạy rằng tôi là người hiểu biết nhất!»

b – Cuộc truy t́m người hiểu biết

[21c] Tôi bèn đến viếng một công dân vẫn được xem là thuộc thành phần có nhiều tri thức sâu rộng nhất thành quốc, hy vọng rằng ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, tôi sẽ có cơ may kiểm chứng phán dụ trên. Tôi đă khảo sát cặn kẽ nhân vật này – xin miễn nêu tên, chỉ cần nói rơ rằng đấy là một trong những chính trị gia lớn nhất của ta[8] –, và từ cuộc đàm luận với ông ấy, tôi rút ra kết luận rằng vị này đă gây được ấn tượng thông thái trước mắt nhiều người, nhất là trước mắt chính ḿnh, song sự thực là y chẳng có chút hiểu biết nào. Khám phá trên khiến tôi cố gắng chứng minh cho ông ta thấy rằng y không hề có những hiểu biết mà y tưởng ḿnh có. [21d] Hậu quả là tôi chỉ chuốc lấy sự thù ghét của ông ta và đám bạn ông đă tham dự cuộc đàm thoại của chúng tôi mà thôi. Khi ra về, tôi không khỏi tự nghĩ ḿnh hiểu biết[9] hơn vị này. Có thể đúng là cả ông ta lẫn tôi đều không biết ǵ đáng kể về cái đẹp, điều tốt thực sự[10], song trong khi y tưởng ḿnh biết mặc dù chẳng biết chi, th́ tôi tuy không biết chi cũng không hề tưởng là ḿnh biết. Như thế, ít nhất về điểm này, dường như tôi hiểu biết28 hơn: tôi không tưởng là biết điều tôi không biết. Sau đó, tôi lại viếng một nhân vật khác, c̣n được xem là thông thái hơn cả vị trước; [21e] tôi đi đến cùng một kết luận, và ở đấy tôi cũng lại tự chuốc lấy oán hận của ông ta và rất nhiều bạn hữu chung quanh.

Tuy vậy, tôi vẫn không nản chí chút nào. Tôi hoàn toàn cảm nhận được sự thù ghét mà ḿnh đă vô t́nh tích lũy, song dù buồn rầu, thậm chí đôi khi kinh hoảng nữa, tôi tin rằng ḿnh phải đặt việc t́m hiểu ư nghĩa lời Thần phán lên trên tất cả[11]. Sôkratês lại ghé hết nhà này đến nhà khác, cố t́m gặp bằng được những người được tiếng thông thái hay tỏ vẻ có vốn liếng tri thức. [22a] Và xin Lang Tinh chứng giám[12], tôi xin thề, bởi v́ tôi phải khai thực với quư vị, đây là kết luận tôi đă rút ra từ cuộc thăm ḍ: trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, kẻ được tiếng là thông thái nhất rốt cuộc lại thiếu hiểu biết hơn ai hết, trong khi kẻ bị xem là thấp kém hơn dường như lại hiểu biết28 hơn. Dù sao, cũng xin tường thuật cùng quư vị mọi chi tiết trong cuộc bôn ba truy t́m đáng gọi là kỳ công Heraklès[13] này của Sôkratês để tự thuyết phục rằng lời phán của Thần là không thể sai.

Sau giới chính khách, tôi t́m đến giới cầm bút, từ kẻ viết kịch, làm thơ đến các loại tác gia khác, [22b] hoàn toàn không nghi ngờ rằng ở đây sự dốt nát của tôi sẽ hiển hiện lộ liễu trước tri thức ưu đẳng của họ. Cầm trong tay những tác phẩm có vẻ đă được tạo tác công phu nhất của họ, tôi hỏi họ thực sự muốn nói ǵ, hy vọng qua đó được chỉ giáo thêm. Thưa quư đồng hương, thật là xấu hổ phải nói lên sự thực, tuy rằng dù sao cũng phải khai thật với quư vị mà thôi. Trong tất cả những người có mặt ở cuộc tṛ chuyện, hầu hết đều có thể bàn về văn thơ của các vị ấy hay hơn cả chính tác giả. Tôi mau chóng nhận ra rằng [22c] giới văn thi sĩ đă sáng tạo được không phải nhờ tri thức, mà nhờ một thứ năng khiếu tự nhiên hay cảm hứng thiên phú giống như ở các nhà tiên tri hay thầy bói; các vị này có thể tiết lộ bao điều thật đáng khâm phục tuy chẳng có hiểu biết ǵ về chúng. Nhà văn, nhà thơ dường như cũng ở trong một trạng thái tương tự[14]; đồng thời tôi cũng nhận thấy rằng họ c̣n tưởng ḿnh thông thái hơn thiên hạ trên mọi vấn đề khác nhờ thứ năng khiếu đặc biệt ấy, thật ra th́ họ chẳng hiểu biết ǵ hơn ai. Tôi bèn giă từ giới này, tin chắc rằng dù sao ḿnh cũng c̣n hơn họ, v́ cùng một lư lẽ như đối với các chính khách.

Sau cùng, tôi t́m đến giới thủ công[15]. [22d] Tự thấy ḿnh chẳng biết ǵ về loại nghệ thuật này, tôi tin chắc sẽ gặp ở đây rất nhiều nghệ nhân có những bí quyết đáng khâm phục. Và về điểm này th́ tôi không nhầm chút nào: họ biết rất nhiều chuyện mà tôi không biết, và dưới khía cạnh này th́ đúng là họ thông thái hơn Sôkratês rất nhiều. Tuy nhiên, thưa quư vị, ngay cả kẻ khéo léo nhất ở đây cũng mắc phải cùng một sai lầm như giới văn thi sĩ; v́ xuất sắc hơn kẻ khác về kỹ thuật nghề nghiệp, anh nào cũng yên trí rằng ḿnh phải có nhiều tri thức hơn thiên hạ về bao chuyện quan trọng khác, đến nỗi sự tự phụ điên khùng đó che lấp cả tài năng của họ. [22e] Rốt cuộc, liên tưởng đến lời phán của Thần, rồi tự vấn hoặc nên giữ ḿnh như bây giờ, nghĩa là không có cả những điều họ biết lẫn những điều họ không biết, hoặc nên vừa có phần kỹ xảo lẫn phần ngu dốt của họ, tôi đă tự trả lời với ḿnh và với Thần rằng tôi muốn giữ ḿnh như hiện thời hơn.

c – Sự oán ghét và hận thù của kẻ bị khảo hạch

Thưa quư công dân Athenai, chính những cuộc điều tra này đă khơi dậy bao oán ghét cay độc và đáng sợ đối với tôi, [23a] và cũng chính từ căm thù mà những điều vu khống đổ lên đầu Sôkratês. Đồng thời, cũng chính nhờ chúng mà tôi lại được tiếng hiểu biết, bởi v́ tất cả những ai đă từng nghe tôi đều tưởng rằng tôi biết hết mọi chuyện về những ǵ tôi chứng minh là người khác không biết. Nhưng thưa quư vị, thật sự chỉ có vị Thần ở đền Delphoi mới thông thái, và Ngài chỉ muốn dạy qua lời phán rằng tri thức của con người chưa đi đến đâu cả, thậm chí không là ǵ hết; và hiển nhiên ở đây đâu phải Ngài nói về cá nhân tôi mà chỉ dùng tên tôi như một thí dụ, [23b] như thể đang nói với tất cả mọi người: «Hỡi con người, kẻ thông thái nhất trong số các anh sẽ là ai tự biết rằng kiến thức của ḿnh không là ǵ cả, như Sôkratês vậy»[16]. Tuy vững tin như thế, song để chắc chắn hơn nữa, đồng thời vâng lời Thần, tôi luôn tiếp tục cuộc t́m kiếm, hết khảo sát công dân thành quốc này đến kẻ ngoại thành kia, bất kỳ ai được tiếng hay có vẻ thông thái, hy vọng một ngày kia sẽ t́m thấy ở họ sự hiểu biết đích thực. Và khi không t́m ra, tôi làm kẻ diễn giải phán dụ của Thần, chứng minh cho từng người thấy rằng họ không thông thái như họ tưởng. Việc ấy đă chiếm hết thời giờ, khiến tôi không c̣n đủ rảnh rỗi để lo việc thành quốc [23c] hay gia đ́nh; thế nên tôi đành cam sống trong cảnh cực kỳ túng quẫn, với mục đích duy nhất là tận tụy phục vụ lời Thần[17].

Plato,

Socrates Tự Biện,

(Trg: Đối thoại «Socratic» I,

Nguyễn Văn khoa dịch, chú giải, dẫn nhập,

Hà Nội, Nxb Tri Thức, 2011, tr. 190-196)



[1] «When Leon of Phlius asked Pythagoras what he was, Pythagoras compared men's activities with the rites of the state and said that there were people who participated in the games themselves, others came to Olympia to open their shops, and some others came to see the Games as the audience. The philosophers are audience or viewers. The human ways of life resembled these: some pursue profit and wealth, and others to gain their fame, while the philosophers love truth» (Diogenês Laertios* Life of Pythagoras. Trg: Lives of Eminent Philosophers, t. 8 – đ. 6).

 

[2]  Chỉ thần Apollôn*, vị thần quan trọng nhất sau Zeus* về quyền năng, đồng thời là vị duy nhất mà Sôkratês tỏ vẻ kính nể. Khi nói về Apollôn, Sôkratês thường không bao giờ gọi đích danh Apollôn mà chỉ gọi là «Thần», hay «vị thần ở đền Delphoi». Xem thêm ở phần Phụ lục.   

[3]  Đền Delphoi là một trong nhiều nơi thờ thần Apollôn. Những phán dụ của Apollôn qua trung gian là đồng cô ở đây rất được người đương thời t́m hỏi, tin theo và đóng một vai tṛ chính trị, văn hóa quan trọng cho măi đến thời Ki Tô giáo. Cuộc thăm viếng đền Delphoi của Chairephôn không được Platôn nói rơ đă xảy ra vào lúc nào, và cũng không thấy tác giả nói đến trong những bản đối thoại khác; theo nhiều tác giả, đấy có thể là một chọn lựa cố ư để nhấn mạnh trên ư nghĩa của sự kiện hơn là bản thân sự kiện.

[4]  Chairephôn là người rất ngưỡng mộ Sôkratês và c̣n cố ra vẻ sống khắc khổ hơn cả Triết gia, nên cũng thường bị Aristophanês chế giễu, đặt tên là «con dơi» hoặc là «rau diếp xoăn». Ở đây, nhân vật này được gọi là «công dân tốt» hay «bạn của nhân dân», v́ ông ta cũng thuộc đảng Dân chủ như những kẻ buộc tội Sôkratês, đă từng đóng một vai tṛ chính trị thực sự ở Athenai, bị nền chuyên chính của Ba mươi bạo chúa* đày biệt xứ, và chỉ được trở về đây sau khi bị lật đổ, hoặc theo một nguồn tin khác, có thể đă chết trong trận đánh chiếm lại thủ đô năm 403.   

[5] Đồng cô ở Delphoi được gọi là Pythia, do tên trước của Delphoi là Pythô. Theo truyền thuyết, khi t́m nơi lập đền, Apollôn đă phải giết con trăn Pythôn khổng lồ đang tung hoành tại đây. Đồng cô khởi thy phải là một cô gái ít hiểu biết song trinh trắng và xinh đẹp, sau v́ xảy ra chuyện một cô bị bắt cóc hay bị quân địch hăm hiếp trong thời chiến, trọng trách này từ đó được giao cho đàn bà cao tuổi. Thủ tục thỉnh lời tiên tri diễn ra như sau: khách viếng đặt câu hỏi qua trung gian là một thầy tu sau khi đă dâng lễ vật, trong khi đồng cô ngự trên một cái giá ba chân bằng đồng đặt sâu ở pḥng trong của đền (adytum), nơi thần hồn Apollôn sẽ nhập vào cô để thốt ra lời tiên tri, sau đó lời phán sẽ được thầy tu trung gian giải thích lại cho khách thỉnh.

[6]  Người em của Chairephôn được nói đến ở đây là Chairekratês. Theo Xenophôn, hai anh em đă từng có nhiều hiềm khích đến mức cư xử vô cùng cực đoan với nhau, sau nhờ sự can thiệp của Sôkratês mà ḥa thuận trở lại (Xenophôn, Memorabilia, t. 2 – đ. 3)

[7]  Hêrakleitos (triết gia siêu h́nh, khg 544 - 480) đă công thức hóa nguyên tắc là lời phán của thần Apollôn phải được giải mă như sau: «Vị thần chủ nhân lời phán đền Delphoi không nói rơ, cũng không che giấu, mà hướng dẫn» = «Le maître à qui appartient l’oracle, celui de Delphes, ni ne dit, ni ne cache; il indique» = «Nowhere or ever did the God of Delphi either reveal or conceal. He indicates only» (Hêrakleitos, Fragments, 93)

[8]  Theo nhiều dịch giả, nhân vật này chính là Anytos, trong khi «nhân vật khác» nói bên dưới có thể thuộc đảng đối lập.

[9]  Từ gốc ở đây là phronêsis (wisdom = sagesse) và phronimos (wise = sage). Phrónêsis như vậy cũng tựa như sophía, nhưng trong khi sophía chỉ hiểu biết theo nghĩa học thuật, lư thuyết (có trí lực, kỹ năng, tài nghệ trong một lĩnh vực hay một sinh hoạt nào đó), th́ phronêsis chỉ hiểu biết theo nghĩa đạo lư, thực tiễn (có khả năng suy tư về lư do và phương thức hành động để thay đổi sự vật   làm cho đời sống tốt đẹp hơn, có khả năng phân biệt điều nên hay không nên làm trước một t́nh huống cụ thể). 

[10]  Dịch theo bản tiếng Anh («Although I do not suppose that either of us knows anything really beautiful and good»), sát với nguyên bản hơn. V́ kiến thức nói đây chủ yếu là hiểu biết theo nghĩa của Sôkratês: cái đẹp là đẹp về đường tinh thần, đạo lư; tốt là cái ǵ thực sự hữu ích và có khả năng mang lại hạnh phúc cho con người (như khi Sôkratês hỏi Glaucôn: «Ông có nghĩ rằng nếu ta sở hữu tất cả mọi thứ khác mà thiếu cái tốt, hay nếu ta có tri thức về tất cả mọi thứ khác mà thiếu hiểu biết về cái đẹp, điều tốt, th́ sự sở hữu ấy, cái tri thức ấy của ta chẳng c̣n bao nhiêu giá trị nữa không?» = «Do you think that the possession of all other things is of any value if we do not possess the good? or the knowledge of all other things if we have no knowledge of beauty and goodness?» Platôn, The Republic, VI-505a-b)

[11]  Nghĩa là, từ đây, Sôkratês xem việc «xét ḿnh và khảo hạch người đời» là một sứ mệnh do thần giao phó. Và bởi v́ nó là một sứ mệnh thiêng liêng, Triết gia không thể nào làm khác hơn là kiên tŕ theo đuổi, dù phải chịu bao nhiêu đắng cay, cực khổ, thậm chí mất mạng.   

[12]  «By the dog»«par le chien» trong các bản dịch. Đây là lời thề b́nh dân khá thông dụng ở Athenai thời ấy, gọi là «lời thề Rhadamanthys». Theo một giải thích, đây là lời thề do người hùng thành kính Rhadamanthys trong truyền thuyết cổ đại đặt ra để tránh gọi tên thần thánh chứng giám một cách nhẹ dạ và bừa băi. Theo giải thích khác, Rhadamanthys* là tên của một vị thẩm phán dưới cơi âm, và con chó nói đây chính là con Kerberos*. Nhưng đúng hơn, có lẽ lời thề này chỉ vào Anoubis*, vị thần đầu chó sói của cổ Ai Cập (Anpu, Inpu, Ienpw hay Imeut = Thần của sự ướp xác, thần Xác ướp), bởi v́ Sôkratês có lúc đă thề xác định  hơn: «Xin lang tinh, thần Ai Cập, chứng giám» = «by the dog the god of Egypt» (Platôn, Gorgias, 461b). Dùng lời thề này trong khi bị kết tội là mang ngoại thần vào thành quốc, có lẽ Sôkratês hàm ư rằng sự du nhập ngoại thần vào Athenai đă xảy ra từ lâu, ở một mức độ rộng răi hơn kẻ buộc tội Ông có thể tưởng, nên mới có sự lẫn lộn giữa Anoubis với Rhadamanthys chăng?  

[13]  Hêraklês* là người hùng lớn nhất, điển h́nh của loại bán thần cổ Hy Lạp. Theo sự so sánh của Sôkratês, việc t́m ra một người có hiểu biết thực sự, một mặt, đă buộc Ông phải bôn ba vất vả để hoàn thành nhiệm vụ như Hêraklês, mặt khác cũng khó khăn ngang với việc hoàn thành 12 kỳ công để chuộc tội của vị bán thần này.

[14] Ư kiến trên sẽ được triển khai đầy đủ hơn trong IonPhaedrus (Phèdre). Trong Phaedrus, thi hứng được xem là một cơn cuồng loạn thần khải (Platôn, Phaedrus, 245a). Trong Ion, ảnh hưởng của nàng thơ được so sánh với đá nam châm; thi sĩ nhận từ nàng thơ những sáng tạo của ḿnh rồi chuyển sang người nghe qua giọng ngâm của người hát rong. Thành thử, ngay cả khi có vẻ như sáng tạo, anh chàng thật ra chỉ lặp lại mà không thực sự hiểu điều đă được thần gợi hứng (Platôn, Ion, 533d-e).

[15]  Ở đây, từ này chỉ tất cả những người làm việc bằng tay, không phân biệt như chúng ta ngày nay hai giới thợ thủ công và nghệ sĩ (họa, điêu khắc). Điều đáng lưu ư là Sôkratês chỉ nh́n nhận cho giới này một kỹ năng, một tri thức mà Ông từ chối công nhận ở giới chính trị, và chỉ nh́n nhận cho các thi sĩ trong chừng mức họ được thần linh nhập vào. 

[16]  Điều này không có nghĩa, một mặt, rằng con người là hoàn toàn ngu dốt, mặt khác, rằng hiểu biết của con người là vô giá trị trong nghĩa tuyệt đối. Về sự ngu tối, sự kiện là con người ngu dốt tự nó không phải là điều bất hạnh, điều bất hạnh là hắn không tự biết là hắn ngu dốt; nhưng sự ngu tối của hắn cũng không hoàn toàn, bởi v́ hắn có thể tự biết là hắn ngu dốt như Sôkratês chẳng hạn. Về hiểu biết, sự hiểu biết của con người không có giá trị ǵ so với hiểu biết đích thực của thần thánh («Kẻ thông thái nhất, so với thần thánh, cũng chỉ như khỉ so với người», Hêrakleitos).

Do đó, con người chỉ có thể được gọi là philó-sophos (kẻ khao khát hiểu biết, như Pythagoras đă lần đầu tiên tự xác định), chứ không phải là sophós (người hiểu biết), từ dành riêng cho thần thánh. Thành thử, hai thái độ tiêu biểu của philó-sophos là: tự biết ḿnh không có hiểu biết, và v́ vậy, đi t́m cái ḿnh thiếu thốn. Triết lư biểu hiện sự khao khát hiểu biết ở con người; thần thánh không cần triết lư. Sôkratês là «người hiểu biết nhất trên đời» không phải v́ Ông được thần Apollôn ban cho sự hiểu biết nào, mà v́ Triết gia đă tự khám phá ra rằng Ông không có hiểu biết nào hết, khi tự suy nghĩ về lời phán của Thần. 

[17] Nghĩa là, từ đây, Socrates xem việc «xét ḿnh và khảo hạch người đời» là một sứ mệnh do thần giao phó. Và bởi v́ nó là một sứ mệnh thiêng liêng, Triết gia không thể nào làm khác hơn là kiên tŕ theo đuổi, dù phải chịu bao nhiêu đắng cay, cực khổ, thậm chí mất mạng.