Cập nhật ngày 15-10-2018 |
Văn hóa (Khái niệm) |
C1 |
|
BA NGHĨA CỦA TỪ «VĂN HÓA»
(1924)
Tác giả: Edward Sapir*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
*
Văn hóa là một thuật từ căn bản nhưng không dễ định nghĩa trong các khoa học nhân văn và khoa học xă hội. Căn bản v́ nó được dùng trong mọi ngành học thuật, khó định nghĩa không những v́ tự nó đă bao gồm nhiều cách hiểu (như trong trích đoạn dưới đây), mà c̣n v́ sự gần gũi với một số từ khác và do đó cần được đối chiếu với những thuật từ này, quan trọng nhất là từ văn minh, như trong các trích đoạn mà chúng tôi sẽ lần lượt dịch đăng trên trang mục này.
*
Từ «văn hóa» có ba nghĩa hay bao gồm ba nhóm ư nghĩa. Đầu tiên, nó được các nhà nhân học hay sử học sử dụng trong một nghĩa chuyên môn nhằm tập hợp mọi yếu tố, vật chất hoặc tinh thần, của cuộc sống con người, do xă hội trao truyền. Trong ư nghĩa này, văn hóa cũng lâu đời như chính con người, bởi ngay cả cuộc sống của những kẻ mọi rợ nguyên thủy nhất cũng xảy ra trong một bối cảnh xă hội mà đặc trưng là sự tồn tại của một mạng lưới phức tạp những thói quen và thái độ được bảo tồn bởi truyền thống.
Kỹ thuật săn bắt của dân Bushman ở Nam Phi, niềm tin vào thuật phù thủy của người da đỏ ở Bắc Mỹ, bi kịch Hy Lạp của người Athenai dưới thời Periklês, máy phát điện của nền công nghiệp hiện đại... tất cả đều là những yếu tố văn hóa trọn vẹn, không phân biệt. [...] Từ quan điểm này, nhà dân tộc học thừa nhận có nhiều loại h́nh văn hóa và vô số các yếu tố văn hóa mà không liên kết chúng với bất kỳ một phán đoán giá trị nào. [...]
Ư nghĩa thứ hai của từ «văn hóa» phổ biến hơn. Nó đề cập đến một lư tưởng mang tính học thuật về sự tinh tế cá nhân, được phát huy từ một số nhỏ những tri thức và kinh nghiệm mà ta đánh đồng với tri thức, nhưng chủ yếu là một tập hợp những phản ứng đặc thù đă được chuẩn nhận bởi một tầng lớp xă hội hay/và một truyền thống lâu đời. [...]
Ư nghĩa thứ ba của từ «văn hóa» là cái khó xác định và minh họa một cách thỏa đáng hơn cả; có lẽ bởi v́ chính những người sử dụng nó cũng hiếm khi có khả năng phát biểu một cách rơ ràng họ hiểu từ này chính xác như thế nào. Ư nghĩa thứ ba này mang đặc tính của nghĩa đầu tiên (nghĩa kỹ thuật) ở chỗ nó cũng nhấn mạnh trên loại tài sản tinh thần của tập hợp hơn là của cá nhân. Nhưng nó cũng mang đặc tính của nghĩa thứ hai, trong chừng mức là nó đặt dấu nhấn trên một vài yếu tố mà các nhà nhân học đă phát lộ sự tồn tại và được rút ra từ ḍng chảy văn hóa to rộng. [...]
Như vậy, «văn hóa» gần gũi với «tinh thần» hay «thiên tài» của một dân tộc, tuy rằng hai từ này không phải là các từ đồng nghĩa chính xác với nó; dùng trong một nghĩa mơ hồ, «tinh thần» hay «thiên tài» quy chiếu về quá khứ tâm lư hay giả tâm lư của một nền văn minh quốc gia, trong khi «văn hóa», ngoài cái quá khứ này, c̣n bao gồm một loạt những biểu đạt cụ thể được cho là những đặc trưng. Do đó, ta có thể định nghĩa văn hóa một cách thô sơ như văn minh, trong chừng mực là nó bao gồm cả thiên tài quốc gia.
Edward Sapir,
Nhân học
(Anthropologie, 1924),
Paris: Ed. de Minuit, 1967,
tr. 326.