ĐẾN PHIÊN XỬ EMILE ZOLA
(1894-1908)
*
1894
Trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai nước Pháp - Đức vào cuối thế kỷ 19, bà Marie Bastian* nhân viên quét dọn Đại Sứ Quán Đức tại Paris được giao phó nhiệm vụ nhặt tất cả mọi giấy tờ trong sọt rác sứ quán, và giấu thay v́ đốt tức khắc tại chỗ, để sau đó giao lại cho thiếu tá t́nh báo Hubert-Joseph Henry* tại nhà thờ Sainte Clotilde. Trong đợt thu nhặt tháng 9 năm 1894, có bản kê một số tài liệu quốc pḥng mật về pháo binh mà tác giả của nó đề nghị bán cho đại tá tùy viên quân sự Đức Maximilien Von Schwartzkoppen (từ đây gọi tắt là «bản kê» = «bordereau»). V́ tài liệu này xác nhận có sự phản bội ở mức cao cấp ngay tại Bộ Tham Mưu Pháp, nó được gửi gấp cho Sở Thống Kê (thực chất là Sở T́nh Báo Quân Đội) do đại tá Jean Sandherr chỉ huy để điều tra. Kẻ bị t́nh nghi tức th́ là Alfred Dreyfus*, một sĩ quan gốc Do Thái, v́ đă từng tập sự trong ngành pháo binh, và chữ viết lại hao hao giống. Bức thư được lần lượt giao cho 5 chuyên gia tuồng chữ giám định: trong khi 2 người đầu (Alfred Gobert, Eugène Pelletier) không dám xác nhận, 3 người kia (Alphonse Bertillon, Etienne Charavay, Pierre Teysonnières) quả quyết đấy chính là tuồng chữ của nghi can. Dreyfus bị gọi lên Bộ Chiến Tranh cho thiếu tá Armand Du Patay de Clam* thẩm vấn, rồi quẳng vào ngục Cherche-Midi ngay ngày 15 tháng 10 năm đó, tư gia bị lục soát để t́m thêm tang chứng tưởng tượng.
Từ nhiều tháng trước, giới báo chí bài Do Thái đă phát động phong trào chống việc lưu giữ sĩ quan Do Thái trong quân đội Pháp. Dưới sự tổ chức của thiếu tá Henry, tin tức nay bắt đầu được tiết lộ trên các nhật báo. Ngày 29-10, tờ Tiếng Tự Do (La Libre Parole) loan tin đồn một sĩ quan làm gián điệp cho Đức bị bắt ngay tại Bộ Tham Mưu; ngày 31, Tia Chớp (L’Eclair) xác nhận tin trên, trong khi Tổ Quốc (La Patrie) cho biết thủ phạm là người Do Thái, và tờ Buổi Chiều (Le Soir) đưa ra tên Alfred Dreyfus. Trở lại phát giác trên ngày 1-11, Tiếng Tự Do của Edouard Drumont* bắt đầu chiến dịch gây áp lực bằng một báo động vịt «Chuyện gián điệp này rồi sẽ bị ém nhẹm cho coi, v́ tên sĩ quan đó là người Do Thái. Toàn thể cộng đồng Do Thái đă chuyển ḿnh»[01], rồi từ đấy tờ báo này không ngừng gây áp lực đ̣i quân đội đem Dreyfus ra xét xử.
Ngày 2-11, sau khi tŕnh bày sự việc trước nội các Charles Dupuy trong buổi họp Hội Đồng Chính Phủ, bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Auguste Mercier* chuyển hồ sơ xuống đại tướng tổng đốc Paris Félix Gustave Saussier. Ngày 7-11, việc lập hồ sơ dự thẩm được giao cho thiếu tá Bexon d’Ormescheville. Ngày 17-11, tướng Mercier hứa trên tờ Nhật Báo (Le Journal) là cuộc điều tra «sẽ chấm dứt trước 10 ngày». Ngày 4-12, tướng Saussier triệu tập toà án chiến tranh để xử Alfred Dreyfus, mặc dù hồ sơ dự thẩm chỉ vỏn vẹn có «bản kê» với tuồng chữ mà ngay cả các chuyên gia cũng không nhất trí là của nghi can.
V́ quyết tâm, khả năng và ngay cả sự trong sạch của chính bộ trưởng Bộ Chiến Tranh cũng bị giới báo chí bài Do Thái nghi ngờ, để trấn an dư luận và tự vệ, Mercier tuyên bố trên tờ Le Figaro ngày 28-11 rằng tội phản bội của Dreyfus là «tuyệt đối, chắc chắn». Kư giả Arthur Meyer b́nh luận trên nhật báo Người Xứ Gaule (Le Gaulois, bảo hoàng) ngày hôm sau: «Ngay cả để bảo vệ danh dự ḿnh, một sĩ quan không thể in ra một ḍng chữ nếu bộ trưởng Bộ Chiến Tranh không cho phép. Thế mà ở đây đại tướng Mercier đă đăng hay để đăng một bài phỏng vấn dài về đại úy Dreyfus; nặng hơn cả một cáo trạng, đây đă là lời kết tội thực sự, một bản án tử h́nh. Chúng tôi chúc mừng tờ Le Figaro đă may mắn t́m được một bài phỏng vấn quan trọng cỡ này, nhưng chúng tôi không khen ngợi đại tướng Mercier. Nếu ngài bộ trưởng Bộ Chiến Tranh đă kết án đại úy Dreyfus như thế, th́ liệu cái ṭa án chiến tranh sắp được triệu tập để xét xử nghi can sẽ c̣n được bao nhiêu tự do?» [02].
Luật sư Edgar Demange* không vận động được để phiên xử có thể diễn ra công khai, Alfred Dreyfus bị xử kín ngay tại ngục thất ngày 19-12, và đến ngày 22-12 th́ bị kết án đày chung thân ở Đảo Ác Quỷ (Ile du Diable) tại Guyane, dựa trên «xác quyết» của Henry, lư thuyết kỳ quái của Bertillon (2 tuồng chữ không trùng hợp hoàn toàn v́ Dreyfus đă cố ư... giả chữ viết của ḿnh) và nhất là nhờ một thủ đoạn bất hợp pháp. Trước phiên họp biểu quyết, 7 sĩ quan trong hội thẩm đoàn đă được bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Auguste Mercier cung cấp một hồ sơ mật về Dreyfus mà cả Dreyfus lẫn luật sư Demange đều không hay biết (trái với thủ tục trong quân pháp là bên bị phải nhận được hồ sơ buộc tội này ít nhất 3 ngày trước phiên xử để có thể nghiên cứu và phản biện), trong đó có một tài liệu khống về sau bị phát hiện là do chính Henry đặt vào, với câu ám chỉ quyết định: «Kèm theo đây là 12 bản đồ mà tên D. vô lại đưa tôi nhờ chuyển cho ông» [03] của tùy viên quân sự Ư Alessandro Panizzardi trong một bức thư gửi đồng nghiệp Đức Von Schwartzkoppen.
Nói chung, báo giới đều thỏa măn với bản án. Tờ Thời Báongày24-12 viết: «công lư chẳng những đă được thực thi, mà thực thi một cách tốt đẹp» [04].Một sớm một chiều trở thành người hùng, đại tướng bộ trưởng Mercier thừa thắng xông lên, đ̣i Quốc Hội tái lập án tử h́nh [05] đối với những trọng tội như tội phản quốc, tạo cơ hội cho lănh tụ cánh tả Jean Jaurès* chỉ trích sự phân biệt đối xử giữa sĩ quan với lính trơn trong quân đội: «Thống chế Bazaine*, bị xác quyết là phạm tội phản quốc, tuy đă lănh án tử h́nh, song không bị xử bắn. Đại úy Dreyfus, bị toà xử nhất trí về tội phản bội, đă không bị kết án tử h́nh. Và, trước những bản án loại này, cả nước chứng kiến là người ta đă bắn bỏ, không tha thứ, không thương hại, những người lính trơn chỉ mắc mỗi tội là đă có một phút lầm lạc hay bạo hành... Nếu người ta không xử bắn [Dreyfus], đấy là v́ người ta đă không muốn, trong khi luật pháp cho phép» [06]. Cuộc tranh luận tiếp theo căng đến nỗi, rốt cuộc, ông dân biểu Jaurès và ngài bộ trưởng Bộ Nội Vụ Louis Barthou hẹn gặp nhau ngay hôm sau ở một trận quyết đấu [07] trong rừng. V́ đấy là ngày Giáng Sinh, nhờ ḷng bác ái vô lượng của Chúa, cả hai ông đều bắn trật địch thủ, và hân hoan về nhà không thương tích.
1895
Ngày 5-1-1895, đại úy Dreyfus bị hạ nhục trong sân Trường Vơ Bị, trước một đám đông khán giả hớn hở, cuồng nộ, khi người ta lột lon, bẻ kiếm của đương sự: «Treo cổ bọn Do Thái!»... «Tên phản bội chết tiệt!»... «Xử giảo hết bọn Judas!»... Léon Daudet* đă tả lại cảnh tượng ấy như sau: «Tuy nhiên, hắn vẫn tiến tới giữa hai người lính, cái xác chết với những bước chân diễu binh vô hồn, nh́n th́ mảnh khảnh mà to lớn v́ nhục nhă, như thể sự căm thù đă chiếm lĩnh thể xác hắn và chế ngự được cả cơn lốc cảm xúc quay cuồng bên trong... Đến gần chỗ chúng tôi, hắn c̣n thu đủ nghị lực để hô lên «Vô tội», giọng hấp tấp trắng bệch. Bây giờ th́ hắn đến trước tôi rồi, trong khoảnh khoắc băng ngang, mắt khô quánh, cái nh́n mất hút trong quá khứ, chắc thế, v́ tương lai đă chết tốt với danh dự. Không c̣n tuổi. Không c̣n tên. Không c̣n cả sắc da. Tuyền một màu phản bội. Mặt nhợt nhạt, nhẵn thín, đê tiện, không chút ân hận, nhất định phải là mặt ngoại tộc thôi, thân tàn ma dại của một biệt khu [Do Thái] nào đó. Vẫn c̣n một cái nh́n cḥng chọc gan ĺ xua đuổi mọi t́nh cảm trắc ẩn. Đấy là lần cuối cùng hắn c̣n sánh bước bên cạnh con người, và hắn tỏ ra tự chủ, sẵn sàng đương đầu với sự ô nhục đến mức giống như là hắn đă tận dụng được thời cơ đó» [08]. Maurice Barrès cũng kể với giọng tương tự: «Khi hắn tiến về phía chúng tôi, mũ kê-pi sụp tới trán, cặp kính không càng kẹp trên sống mũi sắc tộc, mắt giận dữ và khô quánh, mặt câng câng thách thức, hắn hô lên, phải nói thế nào nhỉ? hắn hạ lệnh «Hăy nói với cả nước Pháp rằng tôi vô tội» bằng một giọng không thể chấp nhận nổi. Hàng loạt nào «Judas! », nào «Đồ phản quốc!», ào ra tới tấp. Không biết từ mănh lực của định mệnh mà hắn mang trong người hay do bạo lực của những ư tưởng mà tên họ hắn đă kết hợp lại, kẻ khốn nạn tạo ra ở tất cả khán giả hàng tràng chửi ác cảm. Bộ mặt ngoại tộc, sự trơ trơ cứng nhắc, tất cả cái không khí toát ra ở hắn khiến ngay cả người tự chủ nhất cũng phải thấy ứa gan» [09].Thật ra, thái độ ngoan cố hay ngoan cường của sĩ quan Do Thái này có thể được giải thích đơn giản hơn, nếu người xem đọc được một câu trong thư an ủi chồng của Lucie Dreyfus: «Anh hứa sẽ can đảm, và anh đă giữ lời, em cám ơn anh. Phẩm cách của anh, phong thái đẹp đẽ của anh đă chinh phục được quả tim của nhiều người» [10].
Sự thật là phẩm cách cùng lời kêu oan không ngừng của cựu đại úy Alfred Dreyfus đă gây hoang mang cho không ít khán giả. Có thể nào ông ta bị xử oan thực chăng? C̣n thiếu một bằng chứng tuyệt đối để chiến thắng được trọn vẹn: sự thú nhận của chính nghi can. Các báo bài Do Thái thi nhau đăng lại lời tâm sự và thú nhận... tưởng tượng của Dreyfus với đại úy Charles Lebrun-Renault, sĩ quan có trách nhiệm canh giữ ông. Tất cả đều bị kư giả Eugène Clisson của tờ Le Figaro chứng minh sau đó là láo khoét, trừ một chi tiết: tài liệu buộc tội Dreyfus đă xuất phát từ Đại Sứ Quán Đức chứ không phải từ Bộ Tham Mưu. Nguy tai, Đại Sứ Quán Đức là một ổ gián điệp?! Georg Munster-Ledenburg, đại sứ Đức, tức th́ đ̣i yết kiến tổng thống Pháp để phản đối. Trong cuộc gặp gỡ đêm 15-1-1895, Jean Casimir-Perier xác nhận nguồn gốc của «bản kê», nhưng cho rằng một sứ quán không thể bị xem là phải chịu trách nhiệm về loại thư từ không chờ đợi mà vẫn nhận được. Hai bên đi đến thỏa thuận rằng một thông cáo báo chí theo hướng đó là đủ để tránh khủng hoảng ngoại giao, trong khi ngài bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Pháp Auguste Mercier vẫn cố tŕnh bày cuộc gặp gỡ trên cho bất cứ ai muốn nghe như một đêm «lịch sử», «bi đát», v́ chiến tranh chỉ tránh được trong đường tơ kẽ tóc!
Ngày 15-1-1895, tổng thống Casimir-Perier từ chức, chán ngán vai tṛ tượng trưng trong một nội các mà ông không kiểm soát nổi (ông chỉ được báo cáo về hồ sơ mật một ngày trước khi gặp đại sứ Đức!), và một Quốc Hội mà ông tùy thuộc. Auguste Mercier ra tranh cử với lời kêu gọi: «Quốc Hội phải bầu cho người đă lôi tên phản bội Dreyfus ra trước ṭa án chiến tranh», nhưng chỉ được có 3 phiếu. Dân biểu Félix Faure* được bầu làm tổng thống Cộng Hoà Pháp ngày 17-1-1895 [11]. Tối hôm đó, kẻ vô tội Alfred Dreyfus lên thuyền để đi đến nơi sẽ là mồ chôn sống cuộc đời ḿnh, trong sự im lặng đồng lơa của cả nước Pháp. Một sĩ quan Do Thái đă phản bội, hắn đă đền tội, chẳng ai thấy có ǵ để nói nữa. Ngay cả Georges Clemenceau*, người sau này sẽ tích cực bênh vực Dreyfus, lúc đó c̣n đánh giá ông trên tờ Công Lư (La Justice): «Như vậy là hắn chẳng có thân nhân, vợ con, không có t́nh cảm đối với một cái ǵ cả, không có một liên hệ nào với người hay gia súc, chẳng có ǵ khác hơn ngoài một tâm hồn bẩn thỉu, một trái tim ti tiện» [12]. Trừ vợ ông, Lucie Dreyfus, vẫn không ngừng kêu oan trong sa mạc, và anh của ông, Mathieu Dreyfus, vẫn tiếp tục t́m cách «quậy», với sự trợ giúp của một kư giả Do Thái trẻ có khuynh hướng vô chính phủ là Bernard-Lazare*. Bộ ba bị dư luận gọi mỉa mai bằng một cái tên đầy khinh thị: «nghiệp đoàn Do Thái».
1896
Đầu tháng 7-1895, trung tá Georges Picquart* lên làm giám đốc Sở T́nh Báo thay Sandherr về hưu. Và đầu tháng 3-1896, sở này chận bắt được thiếp điện đoạn tuyệt («le petit bleu» = «mảnh giấy xanh», điện tín chưa gửi) của Von Schwartzkoppen gửi cho thiếu tá Ferdinand Walsin Esterházy*. Picquart quyết định điều tra về viên thiếu tá nổi tiếng ăn chơi đàng điếm với hành tung bất hảo trên, và mau chóng khám phá ra rằng tuồng chữ trong bản kê các tài liệu mật đề nghị bán cho địch chính là của sĩ quan gốc Hungari này. Kinh hoảng, Picquart thông báo cho các đại tướng Tham Mưu Trưởng Charles Le Mouton de Boisdeffre (5-8-1896) và Tham Mưu Phó Charles-Arthur Gonse (3-9-1896). «Tên Do Thái đó phải nằm lại ở Đảo Ác Quỷ th́ việc ǵ đến anh?», Gonse hỏi. - « Nhưng mà, thưa đại tướng, hắn vô tội» - «Hồ sơ này không mở lại được nữa, có dính líu tới đại tướng Mercier và đại tướng Saussier» - «Nhưng mà v́ hắn vô tội...» - «Nếu anh kín miệng th́ sẽ chẳng ai biết» - «Điều ngài nói thật là kinh tởm, thưa đại tướng. Tôi chưa biết sẽ phải làm ǵ, dù sao, tôi sẽ không mang bí mật này xuống mồ» [13],Picquart liều lĩnh đáp.
Cũng ngày 3-9, báo chí đăng lại một tin của tờ Tin Hàng Ngày (DailyChronicle)bên Anh, theo đó Alfred Dreyfus đă hoặc đang chuẩn bị vượt ngục, với sự hỗ trợ tài chính và ngay cả nhân sự của cộng đồng Do Thái Hoa Kỳ. Thật ra, đây chỉ là một tin vịt do chính Mathieu Dreyfus tung ra, để vụ án không rơi vào quên lăng. Trên Đảo Ác Quỷ, tù nhân Dreyfus bỗng dưng được chiếu cố đặc biệt chặt chẽ: cḥi ở bị dựng thêm vách ván chung quanh, chân bị cùm và xích vào giường. Tuy nhiên, mánh lới trên cũng tạo được hậu quả bất ngờ: thấy động, phe chống Dreyfus làm một sai lầm. Ngày 14-9-1896, để vĩnh viễn khoá miệng «nghiệp đoàn Do Thái» và cô lập nó với phần dư luận c̣n hoang mang, tờ Tia Chớp lần đầu tiên nói đến cái hồ sơ mật đă khiến Alfred Dreyfus bị kết án, nghĩ rằng làm như thế là mang lại bằng chứng không thể chối căi về tội trạng của Dreyfus, quên mất rằng nó cũng đồng thời là bằng cớ không thể chối căi về sự vi phạm thủ tục xét xử.
Ngày 16-9, Lucie Dreyfus dựa vào sự thú nhận rằng phiên ṭa đă sử dụng một thủ tục bất hợp pháp để kiến nghị lên Quốc Hội xin xử lại. Ngày 6-11, kư giả Bernard-Lazare cho xuất bản tập sách mỏng tựa là Một ngộ phán pháp lư: sự thật về vụ án Dreyfus (Une erreur judiciaire : la vérité sur l’affaire Dreyfus) tại Bruxelles để tránh bị tịch thu, và sau đó t́m cách thuyết phục một số nhân sĩ nổi tiếng công chính (như thượng nghị sĩ Auguste Scheurer-Kestner*, nhà văn Emile Zola*) nhưng không thành công. Báo chí xôn xao; trong một phiên họp Quốc Hội, dân biểu André Castelin yêu cầu chính phủ Pháp truy tố Bernard-Lazare, nhưng biết rằng cách tốt nhất để phi tang không phải là quậy dư luận ồn lên mà là nhận ch́m xuồng, nội các Jules Méline khoanh tay bất động.
Mặt khác, cấp trên của Picquart quyết định đẩy sĩ quan «có vấn đề» này khỏi Paris: một quân lệnh kư ngày 27-10 gửi ông đi thanh tra vùng biên giới phía Đông. Đồng thời, Henry lại làm giả một cuộc trao đổi thư khác giữa hai tùy viên quân sự Ư - Đức vào cuối tháng 10, trong đó chữ D. trước kia viết tắt nay được khai triển trọn vẹn thành Dreyfus. Trong văn kiện sau gọi là «thư khống Henry» («le faux Henry») này, Von Schwartzkoppen đă than phiền về ḷng tham của Dreyfus: «Rơ ràng là tên Dreyfus chó má này bây giờ đ̣i hỏi nhiều quá», trong khi Panizzardi dặn ḍ: «Tôi đọc thấy rằng một dân biểu sắp chất vấn về Dreyfus. Nếu ở Rome người ta đ̣i thêm giải thích mới, tôi sẽ nói là chưa bao giờ có quan hệ ǵ với tên Do Thái này. Đồng ư như thế nhé. Nếu người ta hỏi ông, cứ nói như vậy» [14].
Ngày 10-11, tờ Buổi Sáng (Le Matin) in lại bản sao bức thư nhặt được trong Đại Sứ Quán Đức, do chuyên viên nhận tuồng chữ Teysonnières bán lại. Mathieu Dreyfus từ nay có thể phóng to tài liệu này bên cạnh chữ viết thật của Alfred Dreyfus, và phổ biến rộng răi để mọi người có thể so sánh. Dư luận ngày càng phân vân, tập sách mỏng của Lazare được nhà xuất bản Stock nhận tái bản ngay tại Pháp. Ngày 26-12, từ vùng biên giới phía Đông, Picquart bị thuyên chuyển sang phục vụ ở Tunisie.
Một biến cố văn hoá bên lề, tuy sau này đóng vai tṛ quyết định trong cuộc tranh chấp: ngày 19-10, số đầu tiên của nhật báo B́nh Minh (L’Aurore, khuynh hướng cộng hoà xă hội) ra đời, với một ban biên tập trong đó có Georges Clemenceau, Urbain Gohier, và Bernard-Lazare. Ernest Vaughan, người sáng lập tờ báo, chịu thu nhận Lazare, lúc ấy c̣n đang vận động ngược xuôi để minh oan cho Dreyfus và do đó bị các nhật báo khác tẩy chay, với một điều kiện: không được dùng diễn đàn của ông trong cuộc tranh chấp pháp lư.
Scheurer-Kestner lần lượt xin gặp tổng thống Felix Faure (29-10) và bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Jean-Baptiste Billot (30-10). Vị nguyên thủ quốc gia hứa sẽ giữ thái độ trung lập thiện cảm, c̣n ngài bộ trưởng th́ hứa sẽ mở ra một cuộc điều tra trong ṿng 15 ngày. Sự thực là Billot đă hạ lệnh gửi Picquart ra vùng biên giới loạn lạc giữa Tunisie và Libye từ ngày 10-10, và trong một phiên họp tại Bộ Chiến Tranh ngày 16-10, bộ ba tướng tá Gonse, Henry và Du Patay đă lấy quyết định, vừa thông báo cho Esterházy bằng thư nặc danh về những nguy hiểm đang chờ đợi y, vừa bảo đảm cho y hậu thuẫn của Bộ Tham Mưu với điều kiện phải tuyệt đối vâng lời qua hai cuộc gặp gỡ mật (23 rồi 27-10). Mặt khác, cũng trong ngày 30-10, Henry cùng với Du Patay lại làm ra những điện tín giả để cáo buộc chính Picquart mới là tác giả thực sự của bức thiếp điện do Von Schwarzkoppen gửi cho Esterházy. Cuối cùng, giới báo chí hữu khuynh (Thánh Giá, Tổ Quốc, Tia Chớp, Người Xứ Gaule, Tiếng Tự Do, Không Nhân Nhượng...), bắt đầu úp mở, xa gần tấn công Auguste Scheurer-Kestner, tŕnh bày ông như «kẻ khờ khạo bị bọn vô lại lừa bịp» [15]
Một bất ngờ khác. Ngày 12-11, tập sách mỏng Một ngộ phán pháp lư: sự thật về vụ án Dreyfus được tái bản và bày bán ở Paris. Một kẻ làm môi giới trong hậu trường chứng khoán tên là Jacques de Castro nhận ra tuồng chữ của Esterházy trên phóng ảnh «bản kê» trong sách, do đă từng nhận được nhiều thư của «khách hàng quen thuộc» này. Ông ta báo ngay cho gia đ́nh Dreyfus. Mathieu đến gặp Scheurer-Kestner nhằm thuyết phục nhân vật này về tông tích thủ phạm, nhưng khi vừa mở miệng: «Kẻ phản bội tên là Esterházy», đă được trả lời «Đúng, chính hắn». Hai bộ phận nổi và ch́m của cuộc vận động v́ sự thật và công lư từ nay được nối kết. Sau hai buổi họp tại tư gia Scheurer-Kestner (ngày 12 và 13-11, lần thứ nh́ có sự tham dự của nhà văn Emile Zola), ngày 16-11, tờ Thời Báo đăng một bức thư ngỏ của Scheurer-Kestner, trong đó ông xác nhận rằng Dreyfushoàn toàn vô tội, tuy không nêu tên thủ phạm đích thực, đồng thời các báo buổi sáng cũng công bố thư của Mathieu Dreyfus gửi bộ trưởng Bộ Chiến Tranh Billot tố cáo đích danh Esterházy là tác giả của «bản kê».
Mặt khác, phe chống xét lại nhận được một sự ủng hộ có trọng lượng. Ngày 19-7, tại trường ḍng ở Arcueuil, và dưới sự chứng kiến của tướng Jamont, linh mục Didon đọc một diễn từ công kích dữ dội nền cộng ḥa. Mặc dù bị đánh giá là «hoàn toàn không thể chấp nhận được» bởi một nhật báo ôn hoà như tờ Thời Báovà gây không ít dị nghị trong số công dân tín đồ, diễn từ không hề bị cấp trên phủ nhận, và linh mục Didon hoàn toàn vô sự.
Ngày 13-8-1898, xem xét tài liệu duy nhất có thể được đưa ra như bằng chứng không thể nghi ngờ để buộc tội sĩ quan Do Thái là bức thư nêu đích danh Dreyfus («thư khống Henry» = «le faux Henry»), đại úy Louis Cuignet phát hiện ra rằng tài liệu này thực ra được ghép từ 2 mảnh giấy khác nhau, chỉ cần đưa lên ánh đèn soi là nhận thấy. Ngày 30-8, Henry bắt buộc phải thú nhận là tác giả của tài liệu giả trên trong cuộc hỏi cung. Bị bắt giam tại Mont-Valérien, ngày hôm sau y viết thư cho tướng Gonse xin gặp, nhưng cuối cùng, cảm thấy bị bỏ rơi, y cứa cổ tự sát, để lại một bức thư tuyệt mệnh cho vợ.
Mặc dù hành động và thái độ của Henry đă gián tiếp xác nhận sự vô tội của đại úy Dreyfus, phe «chống xét lại» vẫn không chùn bước, nhiều báo kết tội: nghiệp đoàn Do Thái đă ám sát Henry!, trong khi Charles Maurras* viết: «Tài liệu giả bất hạnh này sẽ được tính trong số những chiến công lớn nhất của ông», và nâng sĩ quan này lên hàng «công bộc anh hùng của quyền lợi quốc gia, bậc trung nghĩa vĩ đại» [37]. Đối với phía bên kia, Henry chỉ đơn giản chấp hành thượng lệnh: «Người ta ra lệnh cho y làm tài liệu giả, y vâng lệnh. Người ta ra lệnh cho y thú tội, y thú tội. Sau đó, người ta ra lệnh cho y cứa cổ, y làm theo ... Không cần ngay cả giải thích tại sao, chẳng cần phải bảo: «Anh phải cứa cuống họng đi, để khỏi một ngày nào đó chợt có ư định tố cáo đồng lơa». Người ta chỉ đơn giản nói với y: «cứa cổ đi» - thế là y tự cứa cuống họng. Đấy, một quân nhân hoàn hảo như thế đấy» [38].
Ngày 7-11-1898, trong một bài báo đăng trên tờ Thế Kỷ, cựu dân biểu Joseph Reinach buộc tội Henry là đồng lơa của Esterházy. Ngày 14-12, nhật báo Tiếng Tự Do mở cuộc lạc quyên hầu giúp bà goá Berthe Henry kiện Reinach về tội bôi nhọ sĩ quan quá cố; sau một tháng, cuộc quyên góp do Edouard Drumont kêu gọi và tổ chức c̣n thu được hơn 130000 quan! Danh sách những người đóng góp tiền bạc song song với các lời thoá mạ kinh tởm dân Do Thái («để mua đinh đóng bọn Do Thái lên câu rút», «để làm súp chó với sụn mũi Do Thái», «để mua một toa tàu tống khứ», «để mua thảm chân giường bằng da Do Thái», «từ một cư dân Baccarat muốn nh́n thấy tất cả bọn Do Thái đực, Do Thái cái, Do Thái con trong ḷ khổng lồ của xưởng chế pha lê», v. v...) [42] được Pierre Quillard (nhà thơ và dịch giả, phe bênh vực Dreyfus) sắp xếp lại có hệ thống và in ra năm sau, gọi là Tượng Đài Henry (Le Monument Henry), như chứng tích của chủ nghĩa bài Do Thái đương thời.
1990-1908
Ngày 4-1-1900, sau 8 tuần lễ hỏi cung, Thượng Viện họp dưới h́nh thức Ṭa Án Tối Cao (Haute Cour) khép Paul Déroulède, André Buffet (trốn sang Bỉ), Eugène de Lur-Saluces (trốn sang Bỉ) vào tội mưu loạn và kết án 6 năm lưu đày. Riêng Jules Guérin bị 10 năm tù ở, v́ những vi phạm phụ thuộc liên hệ.
Ngày 28-1, trong cuộc bầu cử thị trưởng, phe «quốc gia» chiến thắng tại Paris,
Ngày 1-3, dự luật tổng ân xá được tŕnh tại Thượng Viện. Sau nhiều tháng tranh luận, văn kiện trên được thông qua tại Hạ Viện ngày 18-12, tại Thượng Viện ngày 24-12-1990. Tích cực chống lại dự luật này, Emile Zola đă phản đối trong «Thư Gửi Thượng Viện», đăng lại trên tờ B́nh Minh ngày 29-5: «Đây không phải là thứ luật để bác quyền nữa, mà là để bóp nghẹt công quyền. Trước kia quư vị chỉ thay đổi người xử, nay người ta mời quư vị tuyên bố rằng không cần tới thẩm phán nữa. Sau khi đă nhận công tác bỉ ổi là giả mạo công lư, nay người ta lại giao cho quư vị nhiệm vụ tuyên cáo rằng công lư đă phá sản ... Người ta hoàn tất việc bôi bẩn [chúng tôi], xử [chúng tôi] đâu lưng ngang hàng với kẻ cướp, bằng một biện pháp khốn nạn, nhưng lại muốn che giấu cái tṛ bất công và hèn nhát phổ quát đó dưới màu sắc của ḷng ái quốc cao thượng ... Thật dễ đoán quư vị sẽ bỏ phiếu ra sao, bởi v́ nó chỉ là kết quả của sự hèn yếu, sự bất lực dai dẵng của quư vị. Quư vị tưởng tượng không thể nào làm khác hơn, bởi v́ quư vị không có can đảm làm ǵ khác. Tôi viết bức thư này đơn thuần để có cái vinh dự to tát đă thảo nó ra. Tôi đă làm nghĩa vụ của ḿnh, tôi không tin rằng quư vị đă làm bổn phận quư vị. Luật bác quyền đă là một tội ác pháp lư, luật ân xá sẽ là một sự phản bội quyền công dân, sự bỏ rơi nền cộng ḥa vào tay những kẻ thù nguy hại nhất của nó. Cứ bỏ phiếu thuận đi, chẳng bao lâu nữa quư vị sẽ bị trừng phạt, và sau này nó sẽ là điều ô nhục của quư vị»[55].
Mặt khác, «Thư gửi Ô. Loubet» trên cùng vấn đề này cũng được công bố ngày 22-12 trên B́nh Minh: «Thật là một quan niệm thiển cận, cái ư nghĩ rằng người ta có thể cứu nguy một dân tộc khỏi cái ác đang gặm nhấm nó bằng sự tuyên phán rằng cái ác đó không c̣n tồn tại. Luật ân xá đă được công bố, sẽ không c̣n vụ kiện nào nữa, sẽ không ai có thể truy tố kẻ phạm tội được nữa: t́nh huống này không ngăn cản Dreyfus vô tội đă bị kết án hai lần, và khi nào bản án đó chưa được tu sửa, sự bất công ghê gớm này sẽ tiếp tục làm cả nước Pháp mê sảng trong những cơn ác mộng kinh hoàng» [...] Ông bạn Labori thân thiết và vĩ đại của tôi đă diễn tả với tài hùng biện tuyệt vời của ông: luật ân xá là điều luật của sự hèn yếu, bất lực. Như thể được tích tụ bởi sự đê hèn của nhiều chính phủ kế tiếp, điều luật này h́nh thành từ thói nhu nhược của những kẻ, khi bị đặt trước một sự bất công ghê tởm, đă tự cảm thấy không có đủ nghị lực để hoặc ngăn cản, hoặc sửa đổi nó. Trước bắt buộc phải đánh ở cấp cao, tất cả đă c̣ng lưng, chùn bước. Cuối cùng, trước bao tội ác, điều người ta manglại qua luật ân xá này không phải là sự lăng quên hay tha thứ, mà là sự kinh sợ, sự bạc nhược, sự bất lực của các bộ trưởng trước bổn phận đơn giản là áp dụng luật lệ hiện hành» ... «Đây là một hành động xấu xa nhất định sẽ bị trừng trị, bởi v́ nó không chỉ gây thương tổn cho lương tri, mà c̣n làm bại hoại nền đạo lư quốc gia» [56].
Ngày 27-4 đến 11-5-1902, khối tả chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội. Ngày 7-6 sau đó, nội các Emile Combès ra đời, với tướng Louis André ở Bộ Chiến Tranh và Ernest Vallé ở Bộ Tư Pháp. Ngày 6 và 7-4-2003, Jean Jaurès cố thuyết phục Hạ Viện xét lại phán quyết của Ṭa Án Chiến Tranh ở Rennes, và sau hai phiên họp náo động, chỉ đạt được một nửa kết quả mong muốn: bộ trưởng Bộ Chiến Tranh nhận mở lại một cuộc điều tra mới dưới «danh nghĩa cá nhân». Sau 6 tháng thực hiện nghiêm túc, ngày 19-10 báo cáo của Louis André được tŕnh cho thủ tướng chính phủ, rồi ngày 25-11 chuyển sang Bộ Tư Pháp để nghiên cứu và thi hành.
Ngày 29-9-1902, Emile Zola từ trần tại nhà riêng, chết ngộp v́ thán khí toát ra từ ḷ sưởi, bên cạnh người vợ tên Alexandrine cũng bất động nhưng thoát chết. Cuộc điều tra đương thời kết luận là do tai nạn, tuy nhiên giả thuyết bị ám hại ngày càng được nhiều người tin hơn. Theo tài liệu gần đây nhất [57] : một nhân vật tên là Henri Buronfosse, lúc đó làm nghề chữa ḷ sưởi đồng thời là thành viên của tổ chức Liên Minh Những Người Yêu Nước, đă bịt ống khói ḷ sưởi pḥng ngủ nhà ông và khai thông sớm ngày hôm sau để phi tang; hắn chưa bao giờ bị bắt và chỉ thú nhận tội ác trước khi chết với một người bạn tên là Pierre Hacquin. Ngày 5-10-1902, trong đám táng Emile Zola tại nghĩa trang Montmartre, Anatole France đọc lời ai điếu bất hủ: kẻ vừa nằm xuống «là một thời điểm của ư thức làm người» (xem bài I).
Ngày 26-11-1903, Alfred Dreyfus viết thư cho bộ trưởng Bộ Tư Pháp xin xét lại phán quyết của Ṭa Án Quân Sự ở Rennes. Ngày 5-3-1904, Pḥng H́nh Sự Ṭa Phá Án chấp nhận đơn kháng cáo, và mở thêm một cuộc điều tra nữa dài hơn 8 tháng. Ngày 12-7-1906, Ṭa Phá Án hủy bỏ phán quyết ngày 9-9-1899 mà không gửi trả cho toà án gốc xử lại, «nói rằng bản án đă được tuyên phán một cách lầm lẫn và sai trái» [58]. Ngày hôm sau, Hạ Viện thông qua biểu quyết phục chức Dreyfus với cấp tá, và Picquart với cấp tướng. Giới báo chí bài Do Thái vẫn phản ứng dữ dội, nhưng không gây nổi xáo trộn nào. Ngày 21-7, Dreyfus được gắn Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng, và ngày 5-8-1907 được về nghỉ hưu theo yêu cầu của ông.
Ngày 25-10-1906, Georges Clémenceau được bổ nhiệm thủ tướng chính phủ; ông chọn Georges Picquart làm bộ trưởng Bộ Chiến Tranh. Trước đó, Ngày 13-7-1906, Thượng Viện đă làm lễ truy điệu «sự can đảm trong công vụ của hai thành viên quá cố được thương tiếc nhất: Scheurer-Kestner và Ludovic Trarieux», đồng thời thông qua nghị quyết «đặt tượng bán thân của hai công dân vĩ đại trong tủ kính dọc hành lang trước pḥng họp» [59]. Ngày 11-2-1908, một pho tượng Scheurer-Kestner cũng được khánh thành trước cửa Palais de Luxembourg.
Ngày 4-6-1908, trong buổi lễ chuyển hài cốt Emile Zola vào điện Panthéon [60], nơi «tổ quốc ghi ơn các vĩ nhân» của nước Pháp, tổ chức cực hữu Hành Động V́ Nước Pháp tổ chức biểu t́nh phản đối. Một kư giả tên là Louis Grégori bắn Alfred Dreyfus, nhưng chỉ gây thương tích ở tay. Bị truy tố, Grégori tuyên bố «tôi không bắn Dreyfus mà bắn vào chủ nghĩa Dreyfus», đồng thời nhận định «phiên xử tôi phải là dịp xét lại cái phán quyết xét lại trước». Ra Ṭa Đại H́nh Paris, luật sư của y kêu gọi hội thẩm đoàn: «Tha bổng bị can, quư vị sẽ đền đáp cái t́nh cảm hào hiệp, cái động cơ duy nhất đă thúc đẩy đương sự hành động, đồng thời quư vị sẽ nói với mọi người rằng sự ḥa dịu chỉ có thể đạt được bằng cái giá của sự tương nhượng, nhưng cũng có loại nhượng bộ không thể làm, đấy là những nhượng bộ liên quan đến tổ quốc, đến quốc kỳ. Và sự nhượng bộ chỉ có thể được thực hiện với điều kiện là phe chiến thắng không đè bẹp bên chiến bại. Nếu mai này Gregori không được tha bổng, nhiều người khác sẽ có lư do để hành động tiếp như y, và cuộc nội chiến sẽ tiếp diễn trên khắp miền đất nuớc» [61]. Louis Gregori được tha bổng ngày 11-9-1908.
Ngày 26-9-1918, Alfred Dreyfus được gắn lon trung tá (sau khi trở lại quân đội phục vụ trong cuộc Thế Chiến I), và mất ngày 11-7-1935. Ông được chôn tại nghĩa trang Montmartre đúng vào ngày 14-7, và đúng vào lúc Victor Basch, vị chủ tịch thứ tư của Liên Minh Bảo Vệ Nhân Quyền và Quyền Công Dânnói về lịch sử tổ chức này trong một nghị hội v́ Ḥa B́nh và Tự Do: khi nhắc đến tên Dreyfus, không hẹn mà tất cả mọi người cùng đứng dậy mặc niệm trong một sự im lặng ấn tượng. Jean Guéhenno kể lại: «Đấy, điều mà quần chúng, «đám đông» có thể tự động làm là thế đấy. Mắt rưng rưng, không ai trong chúng tôi lại không cảm thấy như thể, trong khoảnh khắc đó, có sự trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau điều ǵ tựa như một truyền thống công lư» [62].
Boudet, Jacques. Les Mots de l’histoire: dictionnaire. Paris: Larousse, 1998.
Bredin, Jean-Denis. Présentation. Trong: Zola, Emile. L’Affaire Dreyfus :la vérité en marche. Paris: Impr. nationale, 1992. Tr. 7-30
Brunetière, Ferdinand. Après le procès. Revue des Deux Mondes, 15-3-1898 & Brunetière, Ferdinand. Après le procès. Paris: Perrin & Cie, 1898.
Charle, Christophe. Naissance des «intellectuels»: 1880-1900. Paris: Les Editions de Minuit, 1990.
DITL (Dictionnaire International des Termes Littéraires, http://www.ditl.info)
Drouin, Michel. Dir.L’Affaire Dreyfus. Dictionnaire sous la dir. de Michel Drouin.Paris: Flammarion, 2006.
Durkheim, Emile. L’Individualisme et les intellectuels (1898). Trong: Durkheim, Emile. La Science sociale et l’action. Paris: PUF, 1987.
Gervereau, Laurent. Dir.L’affaire Dreyfus et le tournant du siècle (1894-1910). Sous la dir. de Laurent Gervereau et Christophe Prochasson. Paris: BDIC, 1994.
Johnston, William M. The Origin of the Term ‘Intellectual’ in French Novels and Essays of the 1890’s. Journal of European Studies, 4, 1974, tr. 43-56.
Julliard, Jacques. Dir.Dictionnaire des intellectuels français. Sous la dir. de Jacques Julliard et Michel Winock1 1 1 . Paris : Ed. du Seuil, 1996. Tr. 390
Kant, Immanuel. Réponse à la question: qu'est-ce-que les Lumières? Trong: La Philosophie de l'histoire (Opuscules), Paris: Denoel-Gonthier, 1972.
Leymarie, Michel. Dir. L’Histoire des intellectuels aujourd’hui. Sous la dir. de Michel Leymarie, Jean-François Sirinelli. Paris : PUF, 2003.
Minaudier, Jean-Pierre. Le Temps des radicaux (http://www.minaudier.com/ documents/france/ancienprogramme/france-06-radicale.doc).
Ory, Pascal & Sirinelli, Jean-François. Les Intellectuels en France: de l’affaire Dreyfus à nos jours. Paris: A. Colin, 1986.
Sirinelli, Jean-François. Intellectuels et passions françaises. Paris: Fayard, 1990.
Winock1, Michel. Ed. L’Affaire Dreyfus.Présentation par Michel Winock1 1 1 . Paris: Ed. du Seuil, 1998.
Winock2, Michel. Le Siècle des intellectuels. Paris: Ed. du Seuil, 1997.
[01] «L’affaire sera étouffée parce que cet officier est Juif. Tout Israel est déjà en mouvement» (La Libre Parole, 1-11-1894). Từ Israël ở đây chỉ toàn thể người Do Thái nói chung, không phải quốc gia Israël chỉ được thành lập vào năm 1948.
[02] «Un officier ne peut, même pour défendre son honneur, publier une ligne sans l’autorisation du ministre de la Guerre. Or, le général Mercier fait ou laisse publier une longue interview sur le capitaine Dreyfus qui est plus qu’un réquisitoire, qui est une véritable condamnation, un arrêt de mort. Nous félicitons Le Figaro de la bonne fortune d’une interview de cette importance, mais nous ne félicitons pas le général Mercier. Si le ministre de la Guerre prononce un tel arrêt contre le capitaine Dreyfus, quelle liberté restera-t-il au conseil de guerre qui va être appelé à juger ce prévenu?» (Le Gaulois, 29-11-1894).
[03] «Ci-joint 12 plans que ce canaille de D. m’a remis pour vous». Đối với các sĩ quan hội thẩm, D. chỉ Dreyfus, trong khi trên thực tế nó chỉ một tên gián điệp khác, một Dubois nào đó ở Bộ Chiến Tranh (Xem: Winock1 , tr. 67).
[04]«Non seulement la justice est faite, mais bien faite» (Le Temps, 24-12-1894)
[05] Hiến Pháp 1848 được thảo ra sau khi nhân dân Pháp lật đổ vua Louis- Philippe Đệ Nhất, và bị hủy bỏ khi nền Cộng Ḥa bị Louis-Napoléon Bonaparte đảo chính ngày 2-12-1851. Theo Hiến Pháp này, án tử h́nh đă bị hủy bỏ cho loại tội chính trị trên lư thuyết.
[06] «Le maréchal Bazaine, convaincu de trahison, a été condamné à mort, mais n’a pas été fusillé. Le capitaine Dreyfus, convaincu de trahison par un jugement unanime, n’a pas été condamné à mort. Et, en face de ces jugements, le pays voit que l’on fusille, sans grâce et sans pitié, de simples soldats coupables d’une minute d’égarement ou de violence» (Winock1, tr. 17). «Si on n’a pas fusillé pour trahison, c’est parce que l’on ne l’a pas voulu, alors que la loi le permet». Đúng như Jaurès đă tuyên bố, Alfred Dreyfus hoàn toàn có thể bị xử tử, dựa trên điều 76 của bộ luật quân sự thời đó. Dù sao, án tử h́nh cho tội phản quốc cũng đă được tái lập qua dịp đó, song đă quá trễ để áp dụng cho Dreyfus (Drouin, tr. 33 & Gervereau & Prochasson, tr. 12).
[07] Quyết đấu [duel, do từ duellum, tiền thân của bellum (giao chiến), chứ không phải từ duo (hai, đôi)] là một h́nh thức rửa nhục đă trở thành thời trang ở Pháp từ nhiều thế kỷ trước. V́ số người chết quá nhiều, tṛ quyết đấu đă bị các vua Pháp t́m cách cấm đoán, nhưng số chiếu chỉ ngăn cấm lại không cao bằng số lệnh đặc xá, nên đâu lại vào đấy. Từ khi Richelieu thẳng tay áp dụng án tử h́nh cho kẻ vi phạm (2-6-1626), tṛ đấu kiếm rửa nhục mới trở thành kín đáo hơn, song chẳng những vẫn tồn tại mà sau đó c̣n lan sang cả giới tu sĩ! Nói chung, từ thời quân chủ đến cả sau cách mạng, v́ sự dung túng và thái độ khoan hồng của nhà nước vẫn chưa bị thay thế bởi luật pháp, quyết đấu vẫn tồn tại như một định chế xă hội. Trong thế kỷ 19, v́ bộ luật h́nh sự năm 1810 cũng tránh né việc qui định h́nh phạt, án lệ của Ṭa Phá Án được dùng để thay thế: kẻ vi phạm có thể bị kết tội sát nhân (nếu có người chết), hoặc mưu sát (nếu có thỏa thuận «đấu chết bỏ»), hoặc cố ư đả thương (nếu địch thủ mang thương tích). Nhưng trên thực tế, rất ít người bị truy tố hay kết án, trong khi tṛ rửa nhục bằng kiếm hay súng lan ra như bệnh dại. Trong vụ án Dreyfus, có ít nhất 5 trận (nếu chỉ kể giữa những nhân vật chính): Jean Jaurès – Louis Barthou (1894), Bernard Lazare – Edouard Drumont (1896), Georges Clémenceau – Edouard Drumont (1898), Georges Picquart – Hubert Henry (1898), Jean-Jaurès – Paul Déroulède (1904); chỉ có Henry bị thương, các vị khác chẳng ai hề hấn ǵ. Sau Thế Chiến II, tṛ quyết đấu mất dần sức hấp dẫn, trận nổi tiếng cuối cùng xảy ra năm 1967, giữa 2 dân biểu Gaston Deferre và René Ribière.
[08] «Il s’approche, entre ses gardiens, le cadavre marchant d’un pas inconscient de parade, grêle aux regards, mais grandi par la honte, et tel que la haine saisit et domine le tourbillon sensible. Près de nous il trouve encore la force de crier «Innocent!» d’une voix blanche et précipitée. Le voici devant moi, à l’instantané du passage, l’oeil sec, le regard perdu vers le passé, sans doute, puisque l’avenir est mort avec l’honneur. Il n’a plus d’âge. Il n’a plus de nom.Il n’a plus de teint. Il est couleur traître. Sa face est terreuse, aplatie et basse, sans apparence de remords, étrangère à coup sûr, épave de ghetto. Une fixité d’audace têtuesubsiste, qui bannit toute compassion. C’est sa dernière promenade parmi les humains et l’on dirait qu’il en profite, tant il se domine et brave l’ignominie» (Le Figaro, 6-1-1895).
[09] «Quand il s’avança vers nous, le képi enfoncé sur le front, le lorgnon sur son nez ethnique, l’oeil furieux et sec, toute la face dure et qui bravait, il s’écria, que dis-je ? il ordonna d’une voix insupportable: «Vous direz à la France entière que je suis un innocent». «Judas! traitre!», ce fut une tempête. Fatale puissance qu’il porte en lui, ou puissance des idées associées par son nom, le malheureux détermine chez tous des charges d’antipathie. Sa figure de race étrangère, sa raideur impassible, toute son atmosphère révoltent le spectateur le plus maître de soi» (La Cocarde, 6-1-1895)
[10]«Tu m’avais promis d’être courageux, tu as tenu parole, je t’en remercie. Ta dignité, ta belle attitude ont frappé bien des coeurs» (Drouin, tr. 38).
[11] Từ 1875 đến 1946, nước Pháp được tổ chức theo bộ luật hiến pháp 1875 (luật ngày 24-2-1875 quy định tổ chức Thượng Viện, luật ngày 25-2-1875 quy định tổ chức bộ máy công quyền, và luật ngày 16-7-1875 quy định quan hệ giữa các cơ chế công quyền). Dù về sau c̣n được sửa đổi đôi chút, chính 3 tập luật này đă thiết lập nhà nước Đệ Tam Cộng Ḥa, theo đó chức vụ Tổng Thống (nhiệm kỳ 7 năm, có thể tái cử nhiều lần) không xuất phát từ một cuộc phổ thông đầu phiếu mà do Quốc Hội bầu lên. Trong diễn từ từ nhiệm, Jean Casimir-Perierviết: «Tổng Thống của nền Cộng Ḥa không có phương tiện hành động và kiểm soát. Tôi từ chối ngồi lại để cân nhắc sức nặng của những tránh nhiệm phải gánh vác với sự bất lực thực tế đành gánh chịu = La Présidence de la République est dépourvue de moyens d’action et de contrôle. Je ne me résigne pas à comparer le poids des responsabilités qui pèsent sur moi et l’impuissance à laquelle je suis condamné». Clemenceau về sau c̣n nói ác hơn: «Cuộc đời dạy tôi rằng có hai thứ ta hoàn toàn không cần đến: chức tổng thống nền Cộng Ḥa và tuyến tiền liệt = La vie m’a appris qu’il y a deux choses dont on peut très bien se passer: la présidence de la République et la prostate». Mặc dù hiệu lực của nó bị «treo» trên thực tế từ ngày 10-7-1940, khi thống chế Pétain được giao toàn quyền điều khiển nước Pháp, Đệ Tam Cộng Ḥa chỉ thực sự cáo chung khi Hiến Pháp 1946 dựng lên nền Đệ Tứ Cộng Ḥa ở Pháp.
[12] «Il n’a donc pas de parent, pas de femme, pas d’enfants, pas d’amour de quelque chose, pas de lien d’humanité ou d’animalité, rien qu’une âme immonde, un coeur abject» (La Justice, 25-12-1894)
[13]«Qu’est-ce-que cela vous fait que ce Juif reste à l’ile du Diable?» - «Mais mon général, il est innocent» - «C’est une affaire qu’on ne peut rouvrir; le général Mercier, le général Saussier y sont mêlés» - «Mais puisqu’il est innocent» - «Si vous ne dites rien, personne ne le saura» - «Ce que vous dites là est abominable, mon général. Je ne sais pas ce que je ferai, mais en tout cas je n’emporterai pas ce secret dans la tombe» (Drouin, tr. 50).
[14]Von Schwartzkoppen: «Décidément, cet animal de Dreyfus devient trop exigeant» [...]. Alessandro Panizzardi: «J’ai lu qu’un député va interpeller sur Dreyfus. Si on demande à Rome de nouvelles explications, je dirai que jamais j’avais de relations avec ce Juif. C’est entendu! Si on vous demande, dites comme ça» (Drouin, tr. 52).
[15] «Un naïf dupé par des canailles» (La Patrie, 31-10-1987).
[16] «En mon âme et conscience, Esterházy me semble hors de cause» [...] «Il me paraît que le lieutenant-colonel Picquart est dans le cas d’être traduit devant un conseil d’enquête»(Gervereau & Prochasson, tr. 15).
[18] «Et, si des raisons politiques voulaient que la justice fût retardée, ce serait une faute nouvelle qui ne ferait que reculer l’inévitable dénouement, en l’aggravant encore. La vérité est en marche, et rien ne l’arrêtera plus»(M. Scheurer-Krestner, Le Figaro, 25-11-1897)
[19] «Cet homme connu de tous, excepté de ceux qui devaient le connaître, il faut que ce soit M. Mathieu Dreyfus qui le dénonce. Cela ne suffit pas encore. Le ministre de la Guerre, sachant depuis 18 mois que cet homme est accusé de la façon la plus grave par un officier dont la vie est toute d’honneur, se retourne contre cet officier, le frappe d’exil pour avoir fait son devoir et assure à un Walsin-Esterházy l’impunité»... Qu’est-ce-que cela veut dire ? et qui donc protège M. Esterházy?» (L’Aurore, 30-11-1897)
[20] «Un syndicat pour agir sur l’opinion, pour la guérir de la démence où la presse immonde l’a jetée, pour la ramener à sa fierté, à sa générosité séculaires. Un syndicat pour répéter chaque matin que nos relations diplomatiques ne sont pas en jeu, que l’honneur de l’armée n’est point en cause, que des individualités seules peuvent être compromises. Un syndicat pour démontrer toute erreur judiciaire est réparable et que s’entêter dans une erreur de ce genre, sous le prétexte qu’un conseil de guerre ne peut se tromper est la plus monstrueuse des obstinations, la plus effrơyable des infaillibilités. Un syndicat pour mener campagne jusqu’à ce que la vérité soit faite, jusqu’à ce que la justice soit rendue, au travers de tous les obstacles, même si des années de lutte sont encore nécessaires. De ce syndicat, ah! oui, j’en suis, et j’espère que tous les braves gens de France vont en être» (Le Syndicat, Le Figaro, 1-12-1897)
[21] Jules Méline: «Il n’y a pas d’affaire Dreyfus»... Albert de Mun: «Il faut qu’on sache s’il est vrai qu’il y ait dans ce pays une puissance mystérieuse et occulte, assez forte pour pouvoir, à son gré, jeter le soupçon sur ceux qui commmandent à notre Armée ... Il faut qu’on sache si cette puissance occulte est vraiment assez forte pour bouleverser le pays tout entier» ... Jean-Baptiste Billot: «Pour moi, en mon âme et conscience, comme soldat, comme chef de l’armée, je considère le jugement comme bien rendu et M. Dreyfus coupable»(Drouin, tr. 66).
[22]«Je crois que vous avez en main toutes les preuves de l’infâme complot ourdi pour me perdre ; mais il faut que ces preuves soient produites dans un débat judiciaire aussi large que possible, et que la lumière complète soit faite ... Officier, accusé publiquement de haute traison, j’ai droit au Conseil de guerre, qui est la forme la plus élevée de la justice militaire; seul, un arrêt émané de lui aura le pouvoir de flétrir, en m’acquittant devant l’opinion, à laquelle ils ont osé s’adresser, les plus lâches des calomniateurs» ... «J’attends de votre haute équité mon renvoi devant le Conseil de guerre de Paris» (Drouin, tr. 65).
[23]«Nous avons vu la basse presse en rut» ... «la press dite sérieuse et honnête assister à cela avec une impassibilité, j’allais dire une sérénité que je déclare stupéfiante» ... «cette campagne [antisémite] barbare qui nous ramène de mille ans en arrière» ... «une basse exploitation du patriotisme» ... «Pour le moment, dans l’attente de la décision du Conseil de guerre, mon rôle est donc terminé; et je désire ardemment que, la vérité étant faite, la justice rendue, je n’aie plus à lutter pour elles» (Procès-Verbal. Le Figaro, 5-12-1897)
[24] «Nous allons à l’humanité, à la vérité, à la justice!» ... «...nous allons huer un homme, un vieillard, qui, après une longue vie de travail et de loyauté, s’est imaginé qu’il pouvait impunément soutenir une cause généreuse, vouloir que la lumière se fît et qu’une erreur fût réparée, pour l’honneur même de la patrie française» (Lettre à la jeunesse. Zola, tr. 75 & 67).
[25] «On va poursuivre Esterházy, puisqu’on ne peut faire autrement, mais seulement sur les faits accessoires révélés par le colonel Picquart. Le bordereau ne sera pas retenu. Il n’en sera pas dit un mot, le gouvernement ayant trouvé trois experts pour déclarer que l’écriture qu’Esterházy reconnaissait comme sienne n’est pas de sa main» (L’Aurore, 1-1-1898)
[26]«Ma seule inquiétude est que la lumière ne soit pas faite tout entière et tout de suite. Après une instruction secrète, un jugement à huis clos ne terminerait rien. Alors seulement l’affaire commencerait, car il faudrait bien parler, puisque se taire serait se rendre complice. Quelle folie de croire qu’on peut empêcher l’histoire d’être écrite! Elle sera écrite, cette histoire, et il n’est pas une responsabilité, si mince soit-elle, qui ne se payera [...] Et ce sera pour ta gloire finale, France, car je suis sans crainte au fond, je sais qu’on aura beau attenter à ta raison et à ta santé, tu es quand même l’avenir, tu auras toujours des réveils triomphants de vérité et de justice!» (Lettre à la France. Zola, tr. 89).
[27] «Est-ce fini? Je ne crois pas. Il faut maintenant que le gouvernement, pour rester fidèle à ce uhlan, poursuive le «syndicat», le fameux syndicat coupable d’avoir des doutes sur Esterházy. Et s’il n’a pas le courage de le faire, je veux croire que les hommes qui ont pris cette affaire en main ne s’arrêteront pas à mi-chemin. À eux de trainer Billot et son huis clos à la barre de l’opinion publique, devant un jury de citoyens français»(L’Aurore, 12-1-1898)
[28]Jules Guesde: «le plus grand acte révolutionnaire du siècle» (Ory & Sirinelli, tr. 16). Auguste Scheurer-Kestner:«Zola s’est mis sur le terrain révolutionnaire ... quelle faute!» (Bredin, tr. 18).
[29]«J’accuse enfin le premier conseil de guerre d’avoir violé le droit, en condamnant un accusé sur une pièce restée secrète, et j’accuse le second conseil de guerre d’avoir couvert cette illégalité, par ordre, en commettant à son tour le crime juridique d’acquitter sciemment un coupable» (L’Aurore, 13-1-1898)
[30]«L’affaire Dreyfus est devenue le champs clos de deux factions rivales de la classe bourgeoise: les opportunistes et les cléricaux ... Prolétaires, ne vous enrôlez dans aucun des clans de cette guerre civile bourgeoise ... Entre Reinach et De Mun, gardez votre liberté entière» (Winock1 , tr. 24).
[32]«J’accuse les trois experts en écriture, les sieurs Belhomme, Varinard et Couard, d’avoir fait des rapports mensongers et frauduleux, à moins qu’un examen médical ne les déclare atteints d’une maladie de vue et du jugement» (L’Aurore, 13-1-1898)
[33]Albert Delegorgue: «La question ne sera pas posée» ... Charles de Boisdeffre: «Vous êtes le jury, vous êtes la Nation. Si la Nation n’a pas confiance dans les chefs de son Armée, dans ceux qui ont la responsabilité de la défense nationale, ils sont prêts à laisser à d’autres cette lourde tâche. Vous n’avez qu’à parler. Je ne dirai pas un mot de plus» ... Albert Delegorgue: «L’incident est clos» ... Georges Clémenceau: «La loi s’inclinait devant le sabre» (Drouin, tr. 74).
[34] Maurice Barrès: «Je renonce à décrire le tourbillon, la fraternité, la joie de cette fin de journée» (Bredin, tr. 21) ... Georges Clémenceau: «Chacun sait en France aujourd’hui que la loi a été outrageusement violée au détriment d’un accusé dans un simulacre de procès» (L’Aurore, 25-2-1898).
[35]«Il n’y a plus, à l’heure actuelle, ni procès Zola, ni procès Esterházy, ni procès Dreyfus; il n’y a plus de procès du tout. Il faut que cela cesse. À partir de maintenant, tous ceux qui s’obstineraient à continuer la lutte ne pourraient plus arguer de leur bonne foi. Nous leur appliquerons toute la sévérité des lois, et si les armes que nous avons entre les mains ne sont pas suffisantes, nous vous en demanderons d’autres» (Drouin, tr. 75).
[36]«Nous considérons comme un devoir de notre tâche d’adresser un témoignage de notre profonde estime aux hommes honorables qui [...] n’ont pas cessé de mériter le respect de leurs amis et de leurs adversaires» (Drouin, tr. 362).
[37] Charles Maurras: «Votre faux malheureux sera compté entre vos meilleurs faits de guerre» (Gazette de France, 5-9-1898) ... «ce serviteur héroïque des grands intérêts de l’Etat, ce grand homme d’honneur» (Gazette de France, 6-9-1898)
[38] «On lui donne l’ordre de faire un faux, il obéit. On lui donne l’ordre d’avouer son crime, il avoue. On lui donne l’ordre de se couper la gorge ensuite, il s’exécute [...] Point n’est besoin même de lui expliquer pourquoi, ni de lui dire: «Il est nécessaire que vous vous coupiez la gorge, afin qu’il ne vous prenne pas, quelque jour, la velléité de dénoncer vos complices». On lui dit simplement: coupez-vous la gorge – et il se coupe la gorge. Voilà un parfait soldat» (Brulat, Paul. Lumières et grandes ombres. Drouin, tr. 81).
[41]«Républicains, Démocrates, Socialistes, Révolutionnaires, Libertaires! Il n’est pas question aujourd’hui de marquer le triomphe d’un autre, il s’agit de défendre le patrimoine commun: la liberté. Courons tous à l’ami le plus proche et tendons-lui la main; que toute rivalité de groupe disparaisse; sous le bourgeron comme sous le paletot, cherchons le coeur qui bat à l’unisson du nôtre. Formons une armée compacte de résistance, combinons nos forces pour l’action ... Alerte, camarades! (Drouin, tr. 90).
[42] «Achat de clous pour crucifier les Juifs», «pour faire un bouillon de chien avec les cartilages de certains nez», «pour louer un wagon d’exportation», «pour avoir une descente de lit en peau de youpins», «un habitant de Baccarat qui voudrait voir tous les youpins, youpines et youpinets dans les immenses fours de la cristallerie» (youpins, youpines và youpinets là những từ thô tục để chỉ người Do Thái. Drouin, tr. 91).
[43] Được bầu làm nguyên thủ quốc gia nhờ bị xem là nhân vật vô hại nhất cho các chính đảng, Félix Faure là một tổng thống thích xa hoa (người đương thời gọi ông là «Tổng thống Ánh Sáng» (để đối lập giễu cợt với «Vua Ánh Sáng» là Louis XIV), nhưng mờ nhạt (ác miệng, Clémenceau b́nh luận khi ông mất: «Félix Faure đă trở về hư vô, chắc hẳn ông ta phải cảm thấy như đang ở nhà = Félix Faure est retourné au néant, il a dû se sentir chez lui»). Mặt khác, v́ ông chết trong tay t́nh nhân là Marguerite Steinheil, cái chết này là đầu mối của khá nhiều tṛ chơi chữ không mấy tao nhă. Người ta kể, khi được hỏi «Le Président a-t-il toujours sa connaissance?» («Tổng thống lúc đó c̣n ư thức không?», nhưng cũng có thể hiểu rằng «Tổng thống lúc đó c̣n với người quen không?», nhân viên phục vụ ở điện Elysée đă trả lời «Thưa không, chúng tôi phải đưa bà ấy ra bằng cửa sau»). Một câu giễu khác về chuyện này của Clémenceau: «Il voulait être César, il ne fut que Pompée» («Ông ấy muốn làm César, nhưng rốt cuộc chỉ là Pompée», song v́ tên Pompée đọc lên nghe cũng giống như pompé của động từ pomper = bơm lên hay hút vào, nên cũng có thể hiểu bậy); mặt khác, bà Marguerite Steinheil từ đấy bị gọi tếu là «pompe funèbre» (nhà đ̣n, hiểu khác là «máy hút chết người») nên rốt cuộc phải bỏ sang sống bên Anh.
[44] «Si vous m’acquittez, je vous jure de recommencer» (Drouin, tr. 422). «Citoyen jurés, si vous voulez que je recommence, acquittez moi» (Winock1 , tr. 29).
[45] «Messieurs, après un examen approfondi, j’ai acquis pour ma part la conviction que le bordereau a été écrit, non par Dreyfus mais par Esterházy» (Drouin, tr. 93) .
[46]«Je suis chez moi. Monsieur le procureur général peut donc, quand il lui plaira, me faire signifier l’arrêt de la cour d’assises de Versailles, qui m’a condamné, par défaut, à un an de prison et à trois mille francs d’amende. Et nous nous retrouvons devant le jury» [...] «En me faisant poursuivre, je n’ai voulu que la vérité et la justice. Elles sont aujourd’hui. Mon procès n’est plus utile, et il ne m’intéresse plus. La justice devra simplement dire s’il y a crime à vouloir la vérité» (Zola, Emile. Justice. L’Aurore, 5-6-1899)
[47]«J’espère que tous les républicains, sans distinction de nuances, ont fini par découvrir la connexion de l’affaire Dreyfus avec les idées représentatives de la République elle-même. Devant l’Eglise et la monarchie menaçantes, il est grand temps, pour le parti républicain, de se reprendre et de donner à la République un Gouvernement» (Drouin, tr. 95).
[45] Résolution «à ne soutenir qu’un gouvernement décidé à défendre avec énergie les institutions républicaines et à assurer l’ordre public» (Drouin, tr. 95)
[46] Giai đoạn lịch sử cách mạng giữa Đệ Nhị Đế Quốc và Đệ Tam Cộng Ḥa. Năm 1870, Napoléon III khai chiến với Phổ, nhưng bị Bismark đánh bại. Nền Đệ Tam Cộng Ḥa ra đời ngày 4-9-1870, trong điều kiện chiến tranh tiếp diễn. Tổng thống Adolphe Thiers t́m cách kư ḥa ước với Phổ, trong khi dân chúng Paris muốn bảo vệ thủ đô, đồng thời đ̣i hỏi một chính sách chính trị xă hội mới, nên từ chối hạ khí giới. Nội các Thiers phải rút về Versailles, trong khi dân chúng Paris tự tổ chức lấy việc quản trị thủ đô bằng một Hội Đồng Công Xă (Conseil de la Commune). Nội chiến nổ ra ngày 17-3-1871, khi chính quyền Versailles t́m cách giải giới dân chúng Paris. Cuối cùng, 130000 quân Versailles của tướng Gaston Galliffet dẹp tan khoảng 30000 quân Công Xă trong «tuần lễ đẫm máu» (21 đến 28-5-1871).
[48] ... «coupable d’intelligences avec l’ennemi, avec circonstances atténuantes» (Gervereau & Prochasson, tr. 25)
[49] Charles Péguy: «Nous fussions morts pour Dreyfus, Dreyfus n’est point mortpour Dreyfus» (Gervereau & Prochasson, tr. 29) ... Fernand Labori: «Je me désintéresse de Dreyfus, parce que Dreyfus a cessé d’être un symbole» (Gervereau & Prochasson, tr. 34)
[51]«Le gouvernement de la République me rend la liberté. Elle n’est rien pour moi sans l’honneur. Dès aujourd’hui, je vais continuer à poursuivre la réparation de l’effroyable erreur judiciaire dont je suis encore la victime. Je veux que la France entière sache, par un jugement définitif, que je suis innocent. Mon coeur ne sera apaisé que lorsqu’il n’y aura plus un seul Français qui m’impute un crime qu’un autre a commis» (Drouin, tr. 104).
[52]«On vous rend l’innocent, le martyr, on rend à sa femme, à son fils, à sa fille, le mari et le père, et ma première pensée va vers la famille réunie enfin, consolée, heureuse» ... «L’innocent condamné deux fois a plus fait pour la fraternité des peuples, pour l’idée de solidarité et de justice, que cent ans de discussions philosophiques, de théories humanitaires» ... «Et comptez sur nous pour sa glorification. C’est nous, les poètes, qui donnons la gloire, et nous lui ferons la part si belle que pas un homme de notre âge ne laissera un souvenir sipoignant» ... Nous autres, Madame, nous allons continuer la lutte, nous battre demain pour la justice aussi âprement qu’hier. Il nous faut la réhabilitation de l’innocent, moins pour le réhabiliter, lui qui a tant de gloire, que pour réhabiliter la France, qui mourrait sûrement de cet excès d’iniquité»(Lettres à Madame Alfred Dreyfus. L’Aurore, 29-9-1899. Zola, tr. 169)
[53] Devaient être amnistiés «tous les faits criminels ou délictueux connexes à l’affaire Dreyfus ou ayant été compris dans une poursuite relative à l’un de ces faits» (Droin, tr. 104)
[54] «Ceux-là même qui avaient lancé ce cri sentirent obscurément qu’ils avaient lancé comme un défi, comme une provocation. Puis nous continuâmes avec acharnement, voulant réagir, manifester, sentant brusquement comme l’acclamation publique, violente, provocante était la plus grande nouveauté de la journée, la plus grande révolution de cette crise, peut-être la plus grande rupture de sceaux de ce siècle. Aucun cri, aucun chant, aucune musique n’était chargée de révolte enfin libre comme ce Vive Dreyfus!» (Gervereau & Prochasson, tr. 26)
[55] «Ce n’est plus d’une loi de dessaisissement qu’il s’agit, c’est une loi d’étranglement. Vous n’aviez fait que changer les juges; vous êtes sollicités cette fois de dire qu’il n’y a plus de juges. Après avoir accepté la vilaine besogne d’adultérer la justice, vous voilà chargés de déclarer la justice en faillite» ... «On achève de [nous] salir en [nous] renvoyant dos à dos avec des bandits, par une comédie infâme qui entend donner une couleur de magnanimité patriotique à une mesure d’iniquité et de lâcheté universelles» ... «Votre vote est facile à prévoir, car il sera fait de votre longue faiblesse et de votre longue impuissance. Vous vous imaginez que vous ne pouvez pas faire autrement, parce que vous n’avez pas le courage de faire autrement» ... «J’écris simplement cette lettre pour le grand honneur de l’avoir écrite. Je fais mon devoir, et je doute que vous fassiez le vôtre. La loi de dessaississement a été un crime juridique, la loi d’amnistie va être une trahison civique, l’abandon de la République aux mains de ses pires ennemis» ... «Votez-la, vous en serez punis avant peu, et elle sera plus tard votre honte» (L’Aurore, 29-5-1990)
[56] «Mais ce n’en est pas moins une conception à bien courte vue, cette idée qu’on sauve un peuple d’un mal dont il est rongé, en décrétant que ce mal n’existe plus.L’amnistie est faite, les procès n’auront pas lieu, on ne peut plus poursuivre les coupables: cela n’empêche pas que Dreyfus innocent a été condamné deux fois, et que cette iniquité affreuse, tant qu’elle ne sera pas réparée, continuera de faire délire la France dans d’horribles cauchemars» ... «Mon cher et grand ami Labori a dit avec sa superbe éloquence: la loi d’amnistie est une loi de faiblesse, d’impuissance. La lâcheté des gouvernements successifs s’y est comme accumulée, cette loi s’est faite de toutes les défaillances des hommes qui, mis en face d’une injustice exécrable, ne se sont senti la force ni de l’empêcher, ni de la réparer. Devant la nécessité de frapper haut, tous ont fléchi, tous ont reculé. Au dernier jour, après tant de crimes, ce n’est pas l’oubli, ce n’est pas le pardon qu’on nous apporte, c’est la peur, la débilité, l’impuissance où se sont trouvés les ministres de faire simplement appliquer les lois existantes» ... «C’est une mauvaise action qui sera certainement punie, car elle ne blesse pas seulement la conscience, elle corrompt la moralité nationale» (L’Aurore, 22-12-1990)
[57] Bedel, Jean. Zola assassiné. Paris: Ed. Flammarion, 2002. Xem: Zola, l’autre visage. Magazine littéraire, số 413, 10-2002, tr. 57.
[58] «Dit que c’est par une erreur et à tort que cette condamnation a été prononcée» (Droin, tr. 110).
[59] Le 13-7-1906, le Sénat rendait hommage «au courage civique de deux de ses anciens membres les plus regrettés: Scheurer-Kestner et Trarieux». Un projet de résolution fut largement adopté, décidant que «les bustes de ces deux grands citoyens seraient placés dans la galerie qui précède la salle de réunion» (Droin, tr. 281)
[60] Điện Panthéon là một công tŕnh kiến trúc nằm giữa khu La Tinh Paris. Được xây dựng lúc đầu như nhà thờ để tiếp nhận ḥm đựng thánh tích của bà Thánh Geneviève. Theo đề nghị của Claude-Emmanuel de Pastoret, ngôi nhà thờ chưa sử dụng này được Quốc Hội Pháp cải đổi thành nhà mộ dành cho các nhân vật lịch sử lớn của quốc gia, với lời khắc «Tổ quốc ghi ơn các vĩ nhân» trên trán điện, bằng sắc lệnh ngày 4-4-1791. Tuy nhiên, điện Panthéon chỉ vĩnh viễn được dùng trong mục đích này kể từ năm 1885, sau hai lần bị đổi lại làm nhà thờ (1814 à 1830 bởi vua Louis XVIII, và 1851-1870 dưới thời Đệ Nhị Đế Quốc).
[61] «En l’acquittant, vous rendrez justice à la fois au sentiment généreux qui l’a fait agir, au seul mobile qui l’a poussé, et vous aurez dit à tous que l’apaisement ne peut se faire qu’au prix de concessions réciproques, mais qu’il y a des concessions qu’il ne faut pas faire, ce sont celles qui touchent à la patrie, au drapeau. Un apaisement ne peut se faire qu’à la condition que les vainqueurs ne veuillent pas nous écraser. Si demain Gregori n’est pas acquitté, d’autres prendront fait et cause pour lui, et c’est la guerre qui se perpétuera à travers le pays» (Drouin, tr. 111).
[62]«Voilà ce que de lui-même peut le peuple, la «cohue». Il n’est pas un de nous qui, à la limite des larmes, n’ait senti qu’il se faisait dans ce moment, d’une génération à l’autre, comme une transmission, une tradition de justice» (Guéhenno, Jean. Entre le passé et l’avenir. Gervereau & Prochasson, tr. 27).