VÀI SUY NGHĨ VỀ BÀI
Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất nước:
Kỳ tích của các anh hùng thời Minh Trị duy tân
Nguyễn Văn Khoa
_____________________
Đây là bài khai triển một số ư kiến đă được phát biểu tại SALON VĂN HÓA CÀ PHÊ THỨ BẢY Saigon, trong buổi Gặp gỡ & Đối thoại với GS Trần Văn Thọ, ngày 10-1-2015. Phiên bản đầu của bài phái sinh này đă được phổ biến trên Diễn Đàn Forum (Pháp), số Xuân Ất Mùi. Phiên bản thứ hai, đăng ở đây, có một số chỉnh sửa và bổ túc.
Cùng với bài này, mời các bạn cùng đọc, ở phần giới thiệu của AMVC, bài gốc của
GS Trần Văn Thọ – Tốc độ xoay chuyển vận mệnh đất nước: kỳ tích của các anh hùng thời Minh Trị duy tân –
và một bài liên quan của
GS Vĩnh Sính – Thử t́m hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát –
đă được công bố từ 2003 trên Diễn Đàn, sau đăng lại trên trang mạng Vietsciences.
Nguyễn văn Khoa
_____________________
Trước hết xin cám ơn người «ngoại đạo»[1] trên bục đă cho một bài thuyết tŕnh rất hay, với nhiều chi tiết mà loại người «ngoại đạo cấp hai» như tôi chưa bao giờ được nghe.
Tuy nhiên, bài học lịch sử này lại khiến tôi băn khoăn, v́ nó làm đảo lộn một số nếp suy nghĩ đă từng nghe hầu như suốt đời học tṛ. Đấy là những suy tư về ba mối tương quan qua lại mà chúng ta vẫn quen gọi là «biện chứng»: 1) tương quan giữa chiến thắng và chiến bại trong chính trị; 2) tương quan giữa vai tṛ của cá nhân và vai tṛ của quần chúng trong lịch sử; 3) tương quan giữa lịch sử và triết lư lịch sử (hay giữa quá khứ và tương lai) trong hành động.
*
1 – Biện chứng thứ nhất : tương quan giữa thắng và bại trong chiến tranh với chính trị.
Chúng ta vẫn có thói quen đánh giá tích cực chiến thắng, và tiêu cực chiến bại. Bài thuyết tŕnh này khiến tôi băn khoăn, ngớ ngẩn tự hỏi:
– Trong hai trận hải chiến năm 1863 giữa phiên Satsuma với chiến thuyền Anh và giữa phiên Choshu với chiến thuyền Mỹ - Pháp - Hà Lan, nếu may mắn mà các phiên này thắng th́ sao? Liệu nước Nhật sẽ bước vào những thay đổi tư duy đă dẫn đến cuộc cách mạng của thời Minh Trị Thiên hoàng chăng?
– Trong các trận hải chiến cuối thế kỷ 19 giữa Nhật với Trung Hoa (1894-1895), và đầu thế kỷ 20 giữa Nhật với Nga (1904-1905), nếu không may mà Nhật bị đánh bại, th́ liệu nước Nhật có rơi vào chủ nghĩa quân phiệt sau đó chăng?
(Ở đây, xin mở một dấu ngoặc. Ta vẫn thường nghe : không ai LÀM lịch sử với chữ «nếu» cả – xin nhường câu trả lời cho những người làm lịch sử. Chỉ xin phản biện như kẻ học sử: không ai HIỂU hay VIẾT sử được, nếu không lập luận với chữ «nếu», bởi v́ đấy là cách duy nhất để sử gia nhận thức được tầm quan trọng của một sự kiện hay một biến cố – chẳng hạn: nếu quân Pháp thắng ở trận Điện Biên Phủ th́ sao?)
Trở lại với cái thói quen đánh giá của ta. Nó hoàn toàn hiểu được. Nếu chiến tranh đúng là «sự tiếp nối của chính trị bằng những phương tiện khác», th́ chiến thắng bao giờ cũng mở toác hoác cánh cửa chính trị, bởi v́ nó cho phép kẻ thắng trận từ nay thực hiện những mục tiêu của ḿnh, và kẻ chiến bại hầu như chỉ c̣n hai ngả đường: quy phục hoặc trốn chạy.
Thế nhưng lịch sử cũng đầy những chuyện bên thắng cuộc (chiến tranh) trở thành bên bại cuộc (chính trị), và ngược lại. Bởi v́ thắng hay bại trong chiến tranh, nhất là trong nội chiến, chỉ là màn đầu của một bi hài kịch. Vấn đề c̣n nguyên – và đấy là vấn đề chính trị. Hiểu t́nh h́nh sao cho đúng, và lấy những quyết định nào cho đúng với đ̣i hỏi của t́nh h́nh, để đất nước có thể tiến lên?
Cái vĩ đại của sự kiện «vô huyết khai thành» là nó tránh được hoàn cảnh kẻ thắng người thua trong một cuộc nội chiến vừa mới bắt đầu. Nó đă giải quyết vấn đề chính trị bằng biện pháp chính trị, không cần đến «những phương tiện khác». Không có kẻ thắng người thua, th́ không có kiêu đảng hay hận đảng, để rồi cả hai đều trở thành ngu đảng trước tương lai và vận mệnh của đất nước Nhật.
*
2 – Biện chứng thứ hai : tương quan giữa vai tṛ của cá nhân và vai tṛ của những nhân tố phi cá nhân khác trong lịch sử.
Điều có vẻ như nghịch lư của thời Edo suy tàn là cuộc diễu hành đầy ấn tượng của những con người kiệt xuất trong lịch sử Nhật Bản đương thời vừa được kể lại: Yoshida Shoin, Takasugi Kensaku, Saigo Takamori, Ohkubo Toshimichi, Sakamoto Ryoma, Katsu Kaishu, Saigo Takamori … Cứ theo một quan niệm nào đó về kư sử – từ thế kỷ 19 sang suốt thế kỷ 20, c̣n được xem là thế kỷ của sử học và triết lư lịch sử – th́ đây là những bóng ma.
Cùng với sự mở rộng lịch sử từ địa hạt chính trị sang các lĩnh vực khác, lịch sử từ nay không c̣n là tập hợp những tiểu truyện của các vĩ nhân nữa, bởi v́ vĩ nhân hay anh hùng thật ra chỉ là những con rối của các lực lượng kinh tế và xă hội. Vĩ nhân (anh hùng) chết rồi! Hắn đă bị thay thế, bởi các lực lượng khách quan to lớn – «Tinh thần Phổ quát» (Hegel), «lực lượng sản xuất» (Marx), «quần chúng» (Lenin), v. v… –, thậm chí bởi những thúc đẩy từ tiềm thức, khi sử gia không muốn hay không thể sổ toẹt vai tṛ của cá nhân.
«Quần chúng là hàng triệu người. Mà chính trị bắt đầu nơi nào có hàng triệu người; chính ở nơi có hàng triệu người, chứ không phải hàng ngh́n, mà chính trị trở thành vấn đề nghiêm túc»[2]. C̣n ǵ nghiêm túc hơn dự tính thay đổi vận mệnh của cả một quốc gia? Thế mà ở Nhật, lúc ấy, nó lại là sự nghiệp của một số người đếm được trên đầu ngón tay!
Thật ra, cá nhân hay quần chúng, mỗi bên đều có vai tṛ của ḿnh trong tiến tŕnh lịch sử – và tất nhiên là chúng phải khác nhau. Cho dù cái ư kiến «người ta có thể viết lịch sử của châu Âu bằng quy chiếu về ba người khổng lồ Napoléon, Bismark và Lenin» là một khẳng định tào lao đi nữa, th́ bên ngoài mọi đánh giá nào khác ngoài tầm quan trọng của đương sự trong lịch sử, vĩ nhân hay anh hùng vẫn không chỉ là «những nhăn hiệu dán tên tuổi của họ lên sự kiện» (Tolstoi), trừ phi chúng ta thêm vào câu nói trên một ư không phải của tác giả, như một cách nhận nợ. Giống như ta đă nhận nợ với Pasteur, Fleming, Alzheimer, … trong lịch sử y học vậy.
(Ở đây, xin mở một dấu ngoặc thứ hai. Khi được ca tụng quá đáng[3], Newton vẫn c̣n đủ tỉnh táo để phát biểu: «Tôi chỉ là tên lùn đứng trên vai những người không lồ»[4] và, qua ẩn dụ ấy, nhận nợ với bao thế hệ các nhà vật lư và công tŕnh nghiên cứu khoa học đi trước hoặc đồng thời. Vậy, trên cơ sở hợp tác tập thể xuyên thời gian và không gian đó của khoa vật lư học, nếu không có Newton này, th́ ắt cũng sẽ có một Newton khác chăng? Có thể lắm; tất cả vấn đề là bao lâu sau, ở đâu? Và những ǵ đúng cho Newton, tất nhiên cũng sẽ đúng cho Einstein và các nhà khoa học khác).
Nếu hiểu vĩ nhân hay anh hùng như một cá nhân xuất sắc, vừa là sản phẩm, vừa là tác nhân của tiến tŕnh lịch sử, vừa là biểu tượng, vừa là kẻ dựng lên các lực lượng xă hội có khả năng thay đổi quan điểm của cả một thế hệ người, thay đổi diện mạo của cả một vùng đất, th́ mấy thần dân Nhật kể tên ở trên đúng là anh hùng. Họ khác xa với những con vật hy sinh của loại chuyên gia xách động quần chúng cho một cuộc chiến tranh thần thánh mù mờ, với hy vọng được ghi vào sổ liệt sĩ hay sách tuẫn đạo, hoặc được gọi lên thiên đường – loại anh hùng mà người ta có thể bịa ra cả cuộc đời khi cần thiết.
Nhắc lại vai tṛ của cá nhân trong lịch sử, do đó, không chỉ là một sự công chính theo nghĩa «trả lại cho César cái ǵ của César», mà c̣n là nhắc nhở kẻ lănh đạo chính trị cũng như thành phần trí thức, bất kỳ ở đâu và vào thời nào, về trách nhiệm không thể thoái thác, trốn tránh của họ, trước bổn phận bảo vệ lănh thổ - lănh hải, chủ quyền - độc lập và sự nghiệp phát triển quốc gia.
*
3 – Biện chứng thứ ba : tương quan giữa lịch sử và triết lư lịch sử trong hành động.
Phải chăng những Yoshida Shoin, Takasugi Kensaku, Saigo Takamori, Ohkubo Toshimichi, Sakamoto Ryoma, Katsu Kaishu, Saigo Takamori … đều là «kẻ sĩ» hay «sĩ phu» của một nước Nhật chịu ảnh hưởng đáng kể của Nho giáo trong suốt thế kỷ thứ XIX?
Nếu Saigo Takamori, Ohkubo Toshimich, Katsu Kaishu … ủng hộ Mạc Phủ và chỉ chuyển sang khuynh hướng «tôn vương» khi thấy phải đoàn kết chung quanh Thiên hoàng như biểu tượng cho sự thống nhất dân tộc trước họa ngoại thuộc, th́ cái ư thức trung quân của họ phảng phất tính chất thực dụng cơ hội, chứ không nặng tính nguyên tắc «không quân thần phụ tử đếch ra người» của những nhà Nho triệt để kiểu Nguyễn Công Trứ. Sakamoto Ryoma là kẻ vất kiếm hơn là ném bút chuyển sang đọc sách luật và chính trị quốc tế. Yoshida Shoin, Takasugi Kensaku là những nhà tư tưởng, song cái ư tưởng «phải học tập nước ngoài mới có ngày thắng được nước ngoài» th́ lại giả định một sự mất tin tưởng vào truyền thống văn hóa ngh́n năm của Nho gia, đủ triệt để để quay lưng lại với nó.
Rốt cuộc, nếu người hành động nào cũng bị thúc đẩy bởi một số giá trị – dù những giá trị đó có được ư thức hay không, có đan kết với nhau thành hệ thống hay không – th́ những giá trị làm động lực dấn thân của họ là ǵ?
Nho giáo chăng? Nếu chịu tác động của Nho giáo, tôi e rằng họ dễ rơi vào sự cám dỗ của một phiên bản địa phương của hệ tư tưởng «về nguồn» hay hệ tơ tưởng «bản sắc dân tộc» hơn (cái thứ triết lư cho rằng: văn hóa của ta không tồi cũng không dở, dù ngày nay ta đang suy đồi, nhưng đấy chỉ là v́ ta không chịu trau dồi cái hay, cái giỏi, cái đặc sắc của ḿnh; do đó, nếu muốn tự phục hưng, ta phải t́m về những giá trị đầu nguồn, t́m lại bản sắc dân tộc chính thống). Và đây lại là hệ luận của một thứ triết lư lịch sử đặt thời vàng son của ḿnh ở sau lưng (tận thời Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, Vơ Vương xa xôi, bàng bạc tính hoang đường, chất huyền thoại), và của một thứ siêu h́nh học xem đời người (cả cá nhân lẫn nhân loại) như ḍng sông: ḍng sông càng chảy, nước mỗi ngày càng vẩn đục, cho nên muốn t́m lại chất nước trong, nước sạch, th́ phải trở lui đến tận nơi phát nguồn…[5]
Nếu không phải là từ Nho giáo, th́ những động lực đó phát xuất từ đâu, ngoài ḷng yêu nước, hiển nhiên đến độ không cần bàn căi? Nếu xem mạng lưới vận động của các «sĩ phu», kiếm khách đă nêu tên ở trên như một văn bản mà phân tích, ta sẽ thấy chúng hiện lên khá rơ. Phải có trí tuệ mới biết trọng tri thức và nhất là tri thức thực dụng, để cùng phát biểu và nhất trí với nhau: «phải học tập nước ngoài mới có ngày thắng được nước ngoài». Phải có dũng cảm mới dám gác bỏ sĩ diện hăo, để quay lưng lại với một truyền thống đă được tin tưởng từ lâu đời. Nhưng trí và dũng là những giá trị con người cũng có mặt trong nhiều hệ thống (Hy Lạp cổ đại và Phật, chẳng hạn) và trên nhiều bậc thang giá trị khác (đứng thứ 4 trong hệ thống của Khổng giáo).
Nếu đào sâu hơn nữa mạng lưới hành động của họ, đào sâu hơn nữa những cải cách của Thiên hoàng sau đó, ta sẽ t́m thấy hai giá trị nữa: danh dự và ư chí. Chúng không thơm tho như các bộ chữ «tam cương», «ngũ thường», v. v… vàng khè của Nho gia, và có thể chỉ có màu đất sét, nhưng là đất sét thuần túy Nhật Bản. Nó đă khiến cho người Nhật cảm nhận mấy phát súng đại bác của đô đốc Matthew Calbraith Perry năm 1853 như một cái tát. Cái tát giáng vào mặt đất nước Nhật, lịch sử Nhật, văn hóa Nhật, tầng lớp có trách nhiệm lănh đạo quốc gia Nhật và thành phần có bổn phận bảo vệ lănh thổ - lănh hải Nhật… cho đến lúc đó. Và họ đă đáp trả bằng những giá trị cũng thuộc hàng đầu trên bậc thang giá trị văn hóa của nước họ.
Động lực của các chí sĩ Nhật, như vậy, có thể chẳng dính dáng ǵ đến Nho giáo cả. Danh dự và ư chí là những giá trị thuần túy Nhật Bản, không phải của Trung Hoa[6], và chính chúng đă giải thích, vừa cái phản ứng quyết liệt trước thách thức chết người của lịch sử, vừa cái vận tốc xoay chuyển vận mệnh của nước Nhật.
Nói cách khác, nước Nhật đă thay da đổi thịt được, và trong thời gian kỷ lục 15 năm, chính là nhờ họ chỉ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa hời hợt hơn chúng ta tưởng, hoặc nhờ họ đă thoát được ảnh hưởng của Trung Hoa sớm hơn một số nước bị Hán hóa khác[7].
[1] Trong bài phát biểu, GS Trần Văn Thọ khiêm tốn tự nhận là «người ngoại đạo» trong lĩnh vực Nhật học, với ư muốn xác định ông không phải là chuyên gia nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Nhật.
[2] «Les masses se comptent par millions; or, la politique commence là où il y a des millions ; c’est là où l’on compte des millions, et non des milliers, que la politique devient sérieuse» (Lenin, V. I. - Báo cáo tại Đại hội VII Đảng Cộng Sản Nga, 7-3-1918). Văn bản này được in lại trong hầu hết mọi tuyển tập của tác giả, bằng mọi thứ tiếng.
[3] Một thí dụ: «Nature and Nature's laws lay hid in night: God said, "Let Newton be!" and all was light» = «Tự nhiên và quy luật của tự nhiên nằm ẩn trong bóng tối, Thượng Đế bảo : “Hăy để Newton sinh ra”, và tất cả đều sang tỏ» (Alexander Pope, 1688-1744).
[4] Từ câu văn tiếng La tinh được gán cho Bernard xứ Chartres (triết gia, nhà thần học Pháp ở tk 12): «nanos gigantum humeris insidentes» = «Chúng ta là những tên lùn đứng trên vai người khổng lồ (Người xưa)», nên chúng ta thấy được nhiều hơn và xa hơn họ. Newton đă dùng lại ẩn dụ này trong bức thư ngày 5-2-1676 gửi Robert Hooke: «If I have seen further it is by standing on the shoulders of giants = Nếu tôi thấy xa hơn, đấy là nhờ đứng trên vai những người khổng lồ», hàm ư sự thành công của ông đă được xây dựng trên bao công tŕnh thực hiện trước đó.
[5] Triết lư lịch sử của Tây phương hoàn toàn trái ngược. Dù ở Kitô giáo hoặc trong triết lư của Comte, Hegel hay Marx, thời vàng son hứa hẹn luôn luôn nằm ở phía trước, bởi tất cả đều cùng chia sẻ một niềm tin siêu h́nh vào sự tiến bộ, nghĩa là vào cái ư tưởng rằng ngày hôm qua không tốt bằng ngày hôm nay, và ngày nay không tốt bằng ngày mai, bất chấp sự thiếu vắng chứng cớ tiến bộ thuyết phục trong nhiều lĩnh vực.
[6] Về danh dự, tôi chưa từng nghe một văn quan, vơ tướng, hay bộ trưởng nào của Trung Quốc, hoặc của một nước bị Hán hóa nào khác, v́ không làm đầy đủ nhiệm vụ, bị dân chửi, thấy mất danh dự và biết nhục nhă mà mổ bụng tự sát hết cả.
Ư chí cũng không có trong «ngũ thường» của Trung Hoa. Ở người Nhật, nó được biểu thị bằng cái quyết tâm làm việc ǵ cũng phải đến nơi đến chốn, nếu thua kém th́ phải cố bắt cho kịp, nếu có thể th́ qua mặt (một giai thoại: trong thập niên 1960, đội tuyển bóng đá Việt Nam Cộng Ḥa tiếp đổi tuyển Nhật tại Saigon, đội Nhật tặng tuyển VN một đôi giầy bóng đá tí hon, tượng trưng cho nền bóng đá c̣n phôi thai của họ; ngày nay vị trí của mỗi đội ở đâu trên bảng xếp hạng quốc tế? – chiến tranh không thể giải thích tất cả).
Mặt khác, nếu có một giá trị nào mà Trung Hoa và Nhật Bản cùng chia sẻ – chữ «lễ» chẳng hạn – th́ cũng nên phân biệt : cái «lễ» của Trung Hoa biểu thị sự tôn kính tôn ti trật tự chính trị - xă hội, cái «lễ» của Nhật Bản biểu thị sự tôn trọng người khác, trong giao tiếp hàng ngày giữa những cá nhân b́nh đẳng.
Sự sạch sẽ cũng là một đặc trưng của văn hóa Nhật. Sạch sẽ về tinh thần (hăy nh́n cách cư xử của người Nhật sau thảm họa sóng thần) cũng như trong đời sống vật chất (không xả rác hay khạc nhổ bừa băi trong nhà, ngoài ngơ; tự dọn dẹp phần rác rưởi mà họ đă thải ra ở những nơi công cộng có họ đến góp mặt).
Việc nghiên cứu tường tận những giá trị và bậc thang giá trị của người Nhật bằng tiếng Việt – hiện c̣n rất thiếu sót, thậm chí không có – là vô cùng cần thiết, nếu ta muốn học hỏi và bắt kịp quốc gia văn minh này.
[7] Từ chuyến đi công vụ ở Hạ Châu (1844), Cao Bá Quát có lúc cũng «Giật ḿnh khi ở xó nhà, Văn chương chữ nghĩa khéo là tṛ chơi». Song tuy thấy rơ «Từ độ tàu Tây hơn ngựa Hán», vẫn chỉ biết găi đầu tự hỏi: «Sóng cuồng muôn dặm tính sao đây»? Có lẽ v́ song song với cái ư thức «Mũ áo Trung nguyên đă đổi màn» sĩ phu Việt Nam đương thời vẫn c̣n đeo thêm, cùng lúc, cái năo trạng lủng lẳng 4 chữ – tất nhiên cũng là chữ vàng – «đồng văn, đồng chủng» với người Trung Quốc! Thế nên khi Thiên triều c̣n đang lom khom ḅ dậy sau cơn chao đảo, th́ chư hầu «ngh́n năm lệ thuộc» vẫn chỉ biết tiếp tục cái tṛ chơi ghép chữ vô tích sự, tiếp tục vinh danh các thánh nhân, văn hào, thi bá của tên chủ nô, thay v́ t́m phương kế thoát ly nó vĩnh viễn. Thế nên, để đáp lại 80 phát súng của chiến thuyền Pháp ở vịnh Sơn Trà (Đà Nẵng, năm 1841 – nghĩa là trước cả vụ Perry uy hiếp Nhật ở Edo hơn một thập niên), chỉ biết nằm mơ tưởng tới ngày có một ngọn «gió Đông» (!) nào đó của Chu Du (!) thời xa xưa tạt vào, «Đuổi bạt tàu Tây chạy ngút ngàn!» Xem: Vĩnh Sính, Thử t́m hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát, 2003.
Ngày nay, ngoài hai chiếc cùm «đồng văn, đồng chủng» ở chân, c̣n có thêm một cái gông «đồng chí» ở cổ; trong khi Trung Quốc chỉ cầu Mỹ chịu bắt tay, ḥng thôn tính bọn tiểu nhược quốc láng giềng! May mắn thay cho đất nước!