ThaoSaussure

 Học Thuyết Saussure

 

 

Tác giả: Trần Đức Thảo

Nguyên tác: Le Saussurisme [01]

Chuyển ngữ: Phạm Trọng Luật

 

 

_____________________

 

Tầm quan trọng xứng đáng của Ferdinand de Saussure trong ngôn ngữ học nói riêng và khoa học xă hội nói chung không c̣n cần phải chứng minh. Là người đầu tiên đưa phân tích đồng đại [analyse synchronique] vào ngôn ngữ học, ông đă làm một cuộc cách mạng phương pháp thực sự ở đây, và từ những thành tựu đáng kể của khoa này, mở đường cho sự thâm nhập của cấu trúc luận vào tung hoành trong hầu hết các ngành khoa học xă hội, nhất là tại Pháp, cho măi đến cuối thập niên 1980.

Nhưng ngay vào thời kỳ hoàng kim của ngôn ngữ học đồng đại và cấu trúc luận, cũng đă có khá nhiều tranh căi hoặc bất đồng với một số quan điểm của Saussure ở các nhà ngữ học, đặc biệt là sự quy giản mọi kư hiệu vào kư hiệu ngôn ngữ, sự quy giản kư hiệu ngôn ngữ vào hai mặt «signifiant» và «signifié» của nó, và từ đó khẳng định nguyên tắc độc đoán của kư hiệu (xin xem phần chú thích bên dưới). Tất nhiên, sự phê phán của Trần Đức Thảo đại loại cũng gặp lại những ư kiến trên, tuy ít nhiều đă tạo ấn tượng không thể nào có sự trao đổi thật sự giữa hai tác giả, bởi v́ nó xuất phát từ nhận thức luận duy vật chứ không phải từ ngôn ngữ học.

Thật ra, cần nhắc lại rằng Saussure đă chỉ làm một cuộc cách mạng phương pháp trong một môn học; việc biến các luận điểm phương pháp của ông thành một thứ siêu h́nh nhị nguyên, giới hạn tất cả vào quan hệ tay đôi giữa «signifiant» với «signifié» và chối bỏ «référent» hiện thực, chỉ là một bước khai triển quá đáng. Và đúng là phương pháp đồng đại đă mang lại những kết quả mà phân tích lịch đại [analyse diachronique] trước kia không thu hoạch được trong ngôn ngữ học, bởi v́ đúng là để biết giá trị của một yếu tố nào đó trong một sinh ngữ, th́ điều quan trọng là phải phân biệt được nó với các yếu tố cùng thời chung quanh, hơn là biết gốc gác của nó. Song cũng đúng là sự chọn lựa một cách nh́n (một phưong pháp) không thể có hệ quả là loại bỏ mọi cách nh́n khác, bởi v́ tự định nghĩa, bản thân nó chỉ có thể là phiến diện, không thể nào là toàn diện.

Rốt cuộc, khi xác định từ chính văn bản của Saussure khả năng xuất hiện của một thứ kư hiệu học khác, Trần Đức Thảo đă nh́n về cùng một hướng với khá nhiều tác giả trong nhiều lănh vực. Song nh́n về cùng một hướng không nhất thiết phải có nghĩa là đi cùng đường. Khác với những công tŕnh nghiên cứu gọi là «sémiotiques» hay «sémiologiques» của Charles S. Pierce, Roland Barthes, Algirdas J. Greimas, Umberto Eco, Julia Kristeva..., Trần Đức Thảo vẫn c̣n nặng nợ với «ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực» ở Marx, và c̣n băn khoăn xây dựng một môn «kư hiệu học biện chứng». Kết quả cuối cùng, dù cũng chỉ mới là bước đầu, là loạt bài đă đăng trên tạp chí La Pensée (1966-1970) trước khi được đúc kết thành tác phẩm Recherche sur l’Origine du Langage et de la Conscience [T́m Cội Nguồn của Ngôn Ngữ và Ư Thức], xuất bản tại Pháp năm 1973. Và một trong các điểm xuất phát của nó có thể là những suy nghĩ của ông sau khi tiếp cận Saussure 10 năm về trước, được nhắc lại trong mấy trang mà chúng tôi trích dịch và giới thiệu ở đây hôm nay.

                                                                                                                                             

Phạm Trọng Luật

01/06/2006

 

 

 _________

 

Năm 1964, tôi nhận được âm vọng đầu tiên về những thành quả vang dội của cấu trúc luận tại các nước phương Tây. Việc đọc quyển Giáo Tŕnh Ngôn Ngữ Tổng Quát (GTNNTQ) của Saussure [02] trở thành yêu cầu bức thiết.

 

Tôi đă kinh ngạc trước sự táo bạo của Saussure, khi ông nới rộng nguyên tắc độc đoán của kư hiệu [03], được rút ra từ sự khảo sát ngôn ngữ âm từ [04] rồi đem áp dụng cho tất cả mọi loại dấu hiệu nói chung, nhằm tạo lập một môn kư hiệu học [05] như khoa học tổng quát về dấu hiệu. Tuy rằng chính ông đă công nhận ở phần đầu quyển sách sự tồn tại của cả một tập hợp dấu hiệu được tŕnh bày như «dấu hiệu tự nhiên», hoặc toàn phần như cử chỉ điệu bộ, hoặc bán phần như biểu hiệu lễ độ, kư hiệu, biểu trưng [06], v. v... Đặc tính của tất cả loại dấu hiệu này là «một sức biểu đạt tự nhiên nào đó» đă tạo nên «giá trị nội tại» của chúng. Và mặc dù các dấu hiệu bán tự nhiên có mặt độc đoán do quy ước xă hội điều chỉnh, chúng vẫn tuân theo những bó buộc nội tại, do chính nội dung bên trong quy định. V́ thế, đúng như Saussure đă lưu ư, «đặc tính của kư hiệu là nó không hoàn toàn độc đoán; nó không trống rỗng mà luôn có chút liên hệ tự nhiên sơ đẳng giữa cái biểu đạt (yếu tố lập nghĩa) và cái được biểu đạt (yếu tố thụ nghĩa) [07]. Cán cân, biểu trưng của công lư, không thể được thay thế bằng bất cứ vật ǵ, chiến xa, chẳng hạn» [08]. Ta c̣n có thể nói thêm rằng ngay cả những biểu hiệu lễ phép cũng không chỉ bao hàm một quy ước sử dụng mà c̣n ngầm chứa một quy định nội tại nào đó về yếu tố lập nghĩa, khiến nó không thể mang lấy bất kỳ h́nh thức nào – như cử chỉ đặt ngón tay cái lên mũi lêu lêu chẳng hạn.

 

Như thế, v́ lư do nào mà Saussure đă tổng quát hoá không giới hạn nguyên tắc độc đoán của kư hiệu, đến nỗi ta chỉ c̣n cách khảo sát mọi nghi lễ và biểu tượng dưới khía cạnh quy ước như một sự bắt buộc, và loại bỏ trên thực tế nếu không muốn nói là tự cho ḿnh cái quyền gạt bỏ, loại dấu hiệu hoàn toàn «tự nhiên» như cử chỉ điệu bộ? Để biện minh, tác giả cầu viện «lư tưởng» sau: «... kư hiệu độc đoán thực hiện rơ hơn mọi dấu hiệu khác lư tưởng của phương pháp kư hiệu; chính v́ vậy mà ngôn ngữ, hệ thống diễn đạt phức tạp và phổ biến nhất cũng đồng thời là hệ thống điển h́nh nhất; trong nghĩa này ngôn ngữ học có thể trở thành tổng thủ trưởng của toàn bộ ngành kư hiệu học, mặc dù nó chỉ là một hệ thống cá biệt» [09].

 

Tuy nhiên, cái lư tưởng kư hiệu học được xây dựng trên nguyên tắc độc đoán của kư hiệu dường như chỉ có giá trị trọn vẹn cho loại ngôn ngữ khoa học, thứ chuyên ngữ xem sự diễn đạt một cách tách bạch những ư tưởng tách bạch là chính yếu, và trong mục đích đó, sử dụng triệt để một ngôn ngữ quy ước. Bằng sự đổi giọng, chọn từ, lựa điệu, sắp câu, ngôn ngữ ngày thường cũng đă t́m cách đạt đến một phẩm chất diễn tả nào đó, và trong phẩm cách này, không do bộ thể lệ của quy ước điều chỉnh, nhưng đôi khi lại đóng góp một cách quyết định vào quá tŕnh lập nghĩa. Và nếu đúng thật là các ngôn ngữ biểu tượng khác nhau đều cùng có một yếu tố độc đoán do quy ước đặt định, th́ cũng phải công nhận rằng chúng luôn luôn nhắm đến việc thiết lập, thông qua các quy ước ấy, một ư nghĩa trực tiếp đến mức có thể làm được bằng yếu tố biểu trưng, nghĩa là nhờ vào sự tương tự giữa cái biểu đạt trong nội dung bên trong của nó, với cái được biểu đạt. Điều nói trên đặc biệt đúng cho loại ngôn ngữ nghệ thuật mà mục đích chính là tạo tác ra những sản phẩm tự chúng có ư nghĩa, nói cách khác, tự chúng có sức biểu đạt và sức gợi cảm nhờ vào h́nh thế, cấu trúc, và phẩm chất nội tại. Đúng là yếu tố quy ước, như ngữ pháp, vần điệu, «luật chơi» xây dựng vào mỗi thời kỳ, trong mỗi lĩnh vực, và thậm chí ở mỗi nghệ sĩ vẫn c̣n là điều kiện để hiểu tác phẩm. Nhưng thực chất của thời điểm nghệ thuật luôn luôn được định nghĩa bởi cái mà Saussure gọi là «sức biểu hiện tự nhiên» hay «giá trị nội tại» của tác phẩm trong cái tổng thể ư nghĩa đặc thù của nó. Thời điểm quy ước đóng một vai tṛ cần thiết nhưng phi nghệ thuật, bởi chính định nghĩa của nó.

 

Như thế, có thể nói rằng, từ những thấp thoáng hiểu ngầm trong văn bản của GTNNTQ, đă minh thị hiện lên cái khả năng và sự cần thiết xây dựng một môn kư hiệu học khác; đối tượng của nó sẽ là không gian mênh mông của đủ thứ phương thức diễn tả, tuy linh tinh tạp nhạp song cùng hướng về một lư tưởng mà ta có thể gọi là lư tưởng thẩm mỹ, để đối lập với lư tưởng khoa học dựa trên sự phân biệt bằng quy ước lấy nguyên tắc độc đoán của kư hiệu làm cơ sở. Nó bao gồm điệu bộ, nghi thức, biểu tượng, các phương thức tượng h́nh đa tạp, vô số màn diễn xuất bằng cử chỉ và sắc mặt thường vẫn đi trước, đi kèm hay ngay cả thế chỗ cho lời nói khi cần – tóm lại, tất cả những biểu hiệu đă t́m thấy trong nghệ thuật một sự nẩy nở tột bậc. Ở đây, rơ ràng là chúng ta đang đứng trước một tập hợp dấu hiệu đồng nhất, vừa rộng mở vừa chặt chẽ theo kiểu riêng của nó; có thể gọi đấy là hệ thống tổng quát của loại dấu hiệu nội tại hay [biểu hiệu] nghệ thuật – theo nghĩa của aisthésis, cảm giác – mà đặc tính là sức biểu cảm nội tại của yếu tố lập nghĩa, tương phản với hệ thống tổng quát của loại kư hiệu độc đoán do quy ước xă hội đặt định. Ở hệ thống trước, tính đồng nhất h́nh thành trong cấu trúc biện chứng luôn luôn phát triển thuộc nội dung lịch sử của nó, tương phản với sự đồng nhất được định nghĩa bằng cấu trúc h́nh thức của những quan hệ khác biệt, đối lập và phủ định ở hệ thống sau. Và tất nhiên, chính hệ thống thứ nhất mới là nền tảng của cái sau, bởi v́ nó tŕnh diện một cách trực tiếp nội dung của ư nghĩa trong trực quan cảm giác, c̣n hệ thống sau chỉ cho cái nội dung ấy một sự diễn tả theo quy ước, rơ ràng hơn về h́nh thức, để có thể triển khai trên b́nh diện suy luận. Chứng cớ của sự kiện này là người ta hoàn toàn có khả năng học một ngôn ngữ cực kỳ xa lạ từ những dấu hiệu nội tại hay [biểu hiệu] nghệ thuật (cử chỉ hoặc thứ ǵ khác) - điều mà nhà thám hiểm bắt buộc phải làm khi đặt chân lên một mảnh đất mới - trong khi thật khó ḷng, và nói chung là không thể nào, xây dựng lại toàn bộ một hệ thống biểu hiệu nghệ thuật từ sự miêu tả thuần túy bằng âm từ.

 

Thế nhưng, luận điểm về sự ưu tiên của ngôn ngữ như «tổng thủ trưởng của toàn bộ ngành kư hiệu học», c̣n được tŕnh bày ở đầu phần thứ nhất của tác phẩm với một sự thận trọng và dè dặt hợp lư nào đó, bỗng dưng biến thành sự đồng hoá đơn thuần mọi cấu trúc dấu hiệu với cấu trúc âm từ mà không có tới một lời biện minh. Tác giả khẳng định thẳng một mạch: «Trong ngôn ngữ, cũng như trong mọi hệ thống dấu hiệu nào khác, yếu tố phân biệt dấu hiệu, đấy chính là yếu tố cấu thành nó» [10]. Tuy nhiên, sự chứng minh khẳng định trên chỉ được thực hiện cho ngôn ngữ như hệ thống kư hiệu âm từ, trên cơ sở là một từ, bởi tính cách độc đoán của nó, không thể có đặc tính nào khác hơn là sự tự phân biệt với các từ khác. Câu nói thêm «như trong mọi hệ thống dấu hiệu nào khác» rơi xuống một cách vô cùng đột ngột. 

 

Sự đánh đồng tất cả mọi dấu hiệu với kư hiệu âm từ mà tác giả xem như hiển nhiên, trên thực tế, đă được bao hàm như một định đề ẩn trong chính nguyên tắc khảo sát mà ông vừa tŕnh bày về quan hệ giữa ư nghĩa với giá trị. Ư nghĩa [11] của một từ, được định nghĩa như «mặt trái của h́nh ảnh thính giác» [12] của nó - thí dụ, khái niệm được biểu đạt «arbre» là mặt trái của h́nh ảnh thính giác biểu đạt là arbre, arbor, tree, Baum, v. v… tùy ngôn ngữ - dường như lẫn lộn một cách nào đó với giá trị ngôn ngữ được tŕnh bày lúc đầu như «đặc tính biểu trưng ư tưởng» [13] của một từ.

 

Tuy thế, giá trị cũng xuất hiện như bị quy định bởi quan hệ đối lập giữa các kư hiệu với nhau. Giá trị của từ sheep (cừu) trong tiếng Anh chẳng hạn hẹp hơn của từ mouton [cừu, thịt cừu] trong tiếng Pháp, bởi lẽ trong Anh ngữ c̣n có mutton để chỉ thịt con mouton trên bàn ăn. «Trong một ngôn ngữ, tất cả các từ diễn tả những ư tưởng lân cận đều hạn chế lẫn nhau: [trong tiếng Pháp] redouter, craindre, avoir peur [sợ hăi, e sợ, sợ] chỉ có giá trị riêng bởi sự đối lập với nhau; nếu không có redouter, tất cả nội dung của nó sẽ chạy sang các từ cạnh tranh» [14] ... «Trong tất cả các trường hợp này, thay v́ những ư tưởng cho trước, chúng ta bắt gặp các giá trị xuất phát từ hệ thống» [15]. «...Trong tiếng Pháp, khái niệm «juger» được kết hợp với h́nh ảnh thính giác juger; nhưng tất nhiên là khái niệm này cũng chẳng phải là cái đầu tiên, nó chỉ là một giá trị bị quy định bởi những quan hệ của nó với các giá trị tương tự, và nếu không có các giá trị này th́ ư nghĩa của nó cũng chẳng tồn tại» [16].

 

Rơ ràng rằng nếu ta có thể định nghĩa nội dung nguyên sơ của khái niệm bằng một hệ thống kư hiệu nội tại, ngôn ngữ sẽ nhận lấy từ hệ thống ấy phần chủ yếu của các ư nghĩa, với hệ quả là những ư nghĩa này chỉ lệ thuộc vào quan hệ giữa các từ với nhau - cái mà Saussure gọi là «giá trị» - v́ h́nh thức lôgíc và những tiểu dị chính xác chứ không phải v́ nội dung thực chất. Như vậy, tất cả sự chứng minh của tác giả dựa trên định đề ẩn nói trên, rằng không có loại dấu hiệu nào khác ngoài những kư hiệu độc đoán kiểu kư hiểu âm từ, do đó, tất cả ư nghĩa nói chung, hay nói cách khác, tất cả nội dung khái niệm đều quy về đặc tính duy nhất của các kư hiệu dù thuộc về hệ thống nào, là đặc tính tự phân biệt với nhau. Và chính định đề ẩn này, được tŕnh bày lơ lửng ở đoạn cuối của phần chứng minh như điều hiển nhiên tiên khởi, đă khiến cho đặc tính riêng của tiếng nói như hệ thống kư hiệu âm từ hiện ra một cách nghịch lư như trường hợp đặc thù của một tính chất chung đă được phát tán một cách phổ quát cho mọi hệ thống dấu hiệu. «Trong ngôn ngữ, cũng như trong mọi hệ thống dấu hiệu nào khác, yếu tố phân biệt dấu hiệu, đấy chính là yếu tố cấu thành nó» [10].

 

Hiển nhiên là định đề này đă bị chính Saussure phản bác ngay từ đầu, khi ông lưu ư ta về tính đặc thù của loại dấu hiệu «tự nhiên» mà yếu tính là «giá trị nội tại» của chúng chứ không phải chi khác. Tuy nhiên, chắc chắn là ngôn ngữ âm từ vẫn c̣n là thiết yếu để ghi lại trong những khái niệm nhất định nội dung ư nghĩa chỉ mới được trực nhận qua dấu hiệu tự nhiên, nghĩa là qua cái mà ta gọi một cách tổng quát là hệ thống dấu hiệu nội tại hay [biểu hiệu] nghệ thuật. Kết quả là ta không c̣n khái niệm nào khác ngoài những ǵ được xác định là ư nghĩa trong các từ. Nói cách khác nữa, khái niệm đă tự đồng hoá trên thực tế với ư nghĩa âm từ, khiến cho lư thuyết ngôn ngữ về ư nghĩa âm từ dẫn tới những hệ quả đi sâu vào đến tận cùng của lư luận nhận thức về khái niệm.

 

Bởi v́ nếu ư nghĩa được quy định đơn thuần bởi giá trị ngôn ngữ như Saussure hiểu, th́ ngay chính khái niệm, với tư cách là nội dung của ư nghĩa này, cũng không thể có chi khác hơn ngoài một định nghĩa phủ định. Và đấy chính là điều tác giả khẳng định: «Khi ta nói rằng giá trị [ngôn ngữ] tương ứng với khái niệm, ta hiểu ngầm rằng các khái niệm được định nghĩa đơn thuần bằng sự khác biệt, [nghĩa là] không phải bởi nội dung xác định của chúng, mà một cách phủ định bởi quan hệ của chúng với các từ khác của hệ thống. Đặc tính chính xác của chúng là: là cái mà những từ kia không phải là» [15].

 

Được tŕnh bày theo kiểu của Hegel như h́nh thái phủ định thuần túy như vậy, khái niệm không có nội dung nhận thức nào khác ngoài sự đơn giản là cấu trúc ngôn ngữ trong thứ tiếng nói riêng của nó, đến nỗi sự hiểu biết ở đây trở lại như ở Hegel là hiểu biết về bản thân – dù với khác biệt là khoa học tư biện của Hegel, khi rốt cuộc cũng phải yên nghỉ trong cuộc vận động xoay tṛn, vẫn c̣n lưu giữ trong nội thân hoài niệm tất cả sự phong phú của nội dung hiện thực đă bị chối bỏ và triệt tiêu, bởi v́ chính sự phủ định đă được thực hiện một cách tích cực trong «sự nghiêm túc, đau đớn, kiên nhẫn, và lao khổ của cái phủ định» (Hiện Tượng Học Tinh Thần) – trong khi kiểu phủ định của Saussure, khi nó quy giản ư nghĩa của biểu văn vào những quan hệ đối lập giữa các từ với nhau, đă thao tác trong không gian hoàn toàn trống rỗng của những khác biệt âm từ, thành thử nó chẳng lưu giữ được ǵ ở nội dung hiện thực của sự vật, tuy rằng cái nội dung ấy thực ra đă được nhắm đến và diễn tả trong cuộc vận động của những dấu hiệu nảy ra từ đời sống xă hội.

 

Điều quan trọng cần ghi nhận là trong phần đầu của tác phẩm, khi Saussure tŕnh bày những khái niệm căn bản của ngôn ngữ học, với sự phân biệt nổi tiếng giữa langue [tiếng nói], langage [ngôn ngữ] parole [lời nói], ông có một ư nghĩ hoàn toàn khác về giá trị của những khái niệm này [17], như ông đă định nghĩa chúng cho môn học của ḿnh: «Cần lưu ư rằng chúng ta đă định nghĩa sự vật chứ không phải từ ngữ, cho nên những phân biệt vừa thiết lập không hề bị đe doạ bởi một số từ c̣n nhập nhằng, v́ không hoàn toàn trùng hợp với nhau khi chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chẳng hạn như Sprache trong tiếng Đức bao gồm cả «langue» lẫn «langage»; Rede tương ứng đại thể với «parole», song lại mang thêm ư nghĩa đặc biệt của «discours». Trong tiếng La Tinh, sermo có hai nghĩa vừa là «langage» vừa là «parole», trong khi lingua chỉ là «langue» mà thôi, và trong các ngôn ngữ khác đại loại cũng như thế. Không từ nào tương ứng một cách hoàn toàn chính xác với một trong những ư niệm kể trên; khởi đi từ từ vựng để định nghĩa sự vật là một phương pháp sai lầm; v́ thế mọi định nghĩa lập nên từ từ ngữ chỉ là công công cốc» [18].

 

Tất nhiên, khi vạch ra rằng ngôn ngữ khoa học nhằm định nghĩa thông qua khái niệm không phải từ ngữ mà ngay chính bản thân sự vật, Saussure đă cho thấy ở ông một thông kiến khoa học xuất phát từ cái mà Lênin gọi là «chủ nghĩa duy vật bộc phát ở các nhà bác học». Nhưng rơ ràng rằng, để «định nghĩa sự vật», xét tới cùng, cũng phải dùng đến loại từ vựng của ngôn ngữ ngày thường mà thôi. V́ nếu quả thật là các từ đă được định nghĩa rồi - như «langue», «langage», «parole», hoặc bất cứ dấu hiệu nhân tạo nào khác thay vào đó - nay có thể được xem như từ mới, bởi sự kiện là từ đây chúng chỉ mang lấy ư nghĩa khoa học như tác giả đă thiết lập trong định nghĩa không hơn không kém, th́ chính các định nghĩa này, trong tư cách là định nghĩa cơ bản, cũng nhất thiết phải được cấu tạo từ các từ thường ngày với ư nghĩa thông dụng của chúng. Hiển nhiên là không thể có khởi điểm nào khác. Và bởi v́ định nghĩa khoa học, như Saussure đă khẳng định rất đúng đắn, trỏ vào ngay chính hiện thực của sự vật, phải công nhận rằng ngôn ngữ đời thường đă bao hàm trong loại ư nghĩa được tạo lập một cách tự phát, một nội dung nhận thức có thực chất và có khả năng tái tạo trung thực, tuy phiến diện và phần nào mù mờ, nội dung khách quan của hiện thực, khiến cho cái nội dung được chuyên chở trong ư nghĩa của các từ có thể được xác định thêm và triển khai bởi sự phối hợp nhiều biểu văn, nhưng không cách nào có thể chỉ đơn thuần rút gọn về mối quan hệ giữa các từ đó với nhau.

 

Đấy chính là hệ quả thiết yếu của «chủ nghĩa duy vật bộc phát ở các nhà bác học». Khi nói về khoa học của ông, Saussure c̣n chung thủy với thứ chủ nghĩa này, và chắc chắn là nhờ nó mà ông đă đạt đến những phát kiến khoa học làm ông nổi tiếng như sự phát hiện ra tính khác biệt của âm vị. Tuy nhiên, khi ông cho học thuyết về giá trị ngôn ngữ tầm quan trọng tổng quát như cái quy định toàn thể ư nghĩa, và do đó, ngay chính nội dung khái niệm của nhận thức, chỉ đơn thuần bởi quan hệ giữa các từ với nhau - nói cách khác, khi ư thức hay không ư thức, ông thực sự nhảy từ ngôn ngữ học sang triết lư nhận thức, để rơi vào một thứ học thuyết hư vô chủ nghĩa xoá bỏ hoàn toàn mọi quan hệ giữa nhận thức với đối tượng hiện thực, th́ cuối cùng, các khái niệm chỉ có thể xuất hiện như «được định nghĩa đơn thuần bằng sự khác biệt, không phải bởi nội dung xác định của chúng, mà một cách phủ định bởi quan hệ của chúng với các từ khác của hệ thống. Đặc tính chính xác của chúng là: là cái mà những từ kia không phải là» [15]. Một sự mâu thuẫn như thế giữa nhà khoa học và nhà lư thuyết tất nhiên không thể giải thích được bằng lư lẽ khoa học, và đó là điều có thể được nh́n thấy rơ ràng qua sự so sánh đáng chú ư giữa giá trị ngôn ngữ và giá trị kinh tế của chính tác giả. 

 

Theo Saussure, lư thuyết về giá trị ngôn ngữ dẫn đến một «nguyên tắc nghịch lư» dường như chi phối tất cả mọi giá trị nói chung. «Giá trị luôn luôn được tạo lập: 1) bởi một vật khác biệt có thể được dùng để trao đổi với vật mà giá trị cần được xác định; 2) bởi những vật tương tự có thể đem so sánh với vật mà giá trị c̣n đang phải bàn căi.

 

Cả hai nhân tố này đều cần thiết cho sự tồn tại của giá trị. Như thế, để quyết định giá trị của đồng năm quan, ta cần biết rằng: 1) ta có thể đổi nó lấy một lượng nào đó của một vật khác, thí dụ như bánh ḿ; 2) ta có thể so sánh nó với một giá trị tương tự trong cùng hệ thống, thí dụ như đồng một quan, hay trong một hệ thống khác, như đồng một đô la  v. v... Cũng thế, một từ có thể được trao đổi với một vật khác nó: một ư tưởng; mặt khác, nó có thể được so sánh với một vật nào đó tương tự: một từ khác» [19].  

   

Rơ ràng là quan niệm về giá trị kinh tế được tác giả tŕnh bày ở đây chính là quan điểm của kinh tế chính trị học thông tục, dựa trên «mặt ngoại hiện tha hoá của những quan hệ kinh tế», nói theo kiểu của Marx [20], nghĩa là nó luôn luôn dừng lại trên b́nh diện hiện tượng hời hợt - b́nh diện trao đổi -, chứ không tự hỏi xem các hàng hoá trao đổi đă h́nh thành như thế nào. Thật vậy, nếu chỉ giới hạn vào vận động trao đổi, ta có thể phân biệt ngay hai quan hệ: quan hệ trao đổi, hay giá trị trao đổi giữa tiền tệ với hàng hoá, và quan hệ «so sánh» giữa đồng tiền này với một đồng tiền khác. Tuy nhiên, sự so sánh này hoàn toàn hời hợt, bởi v́ hai quan hệ trên thực chất chỉ là một. Trong cả hai trường hợp, vẫn chỉ là chuyện trao đổi tiền nong lấy hàng hoá, bởi v́ đồng tiền cũng chỉ là hàng hoá mà thôi, và quan hệ «so sánh» giữa hai đồng tiền thật ra chỉ là quan hệ trao đổi giữa đồng tiền này như tiền tệ với đồng tiền kia như hàng hoá. So sánh kiểu đó chỉ là một [suy luận] lặp thừa.

 

Khổ nỗi, Saussure đă quan niệm sự phân biệt ngôn ngữ giữa ư nghĩa với giá trị trên chính khuôn mẫu này: quan hệ giữa từ vựng với cái ư tưởng đă xác lập ư nghĩa của nó được tŕnh bày như một quan hệ trao đổi, đồng dạng với quan hệ trao đổi giữa tiền tệ với hàng hoá, c̣n quan hệ giữa các từ vựng với nhau th́ được tŕnh bày như một quan hệ so sánh, đồng dạng với quan hệ so sánh giữa các hệ tiền tệ khác nhau. Song cả ở đây nữa, hai thứ quan hệ trên thực chất chỉ là một.

 

Bởi v́, để xác lập giá trị, nói cách khác, quan hệ so sánh giữa redouter với craindre trong tiếng Pháp chẳng hạn, ta sẽ nói theo từ điển Larousse rằng redouter«craindre một cách mănh liệt», nghĩa là rốt cuộc cũng trở lại quan hệ trao đổi giữa từ thứ nhất, trong tư cách là từ đă được định nghĩa, với một cụm từ xác lập ư nghĩa của nó từ từ thứ hai. Và bởi v́ cụm từ này chỉ biểu thị ư tưởng đă được định nghĩa trong từ thứ nhất, kết quả là quan hệ trao đổi cũng như quan hệ so sánh giữa hai từ với nhau ở đây hoàn toàn trùng hợp với quan hệ trao đổi giữa từ vựng với cái ư tưởng mà nó biểu thị. Ngược lại, quan hệ trao đổi giữa từ vựng với cái ư tưởng mà nó biểu thị cũng trở lại thành quan hệ trao đổi giữa từ này với các định nghĩa khác có thể lập nên từ những từ lân cận. Và đấy chẳng là ǵ khác hơn là quan hệ giá trị, nói cách khác, quan hệ «so sánh» giữa từ này với những từ khác đă được dùng để định nghĩa nó.

 

Tóm lại, chúng ta vẫn chỉ luôn luôn đứng trên b́nh diện trao đổi giữa các kư hiệu mà thôi, và sự phân biệt giữa ư nghĩa với giá trị ngôn ngữ cũng hư ảo như cái mô h́nh kinh tế của nó, nghĩa là sự phân biệt giữa giá trị trao đổi của tiền tệ được biểu thị bằng hàng hoá với hối suất giữa các đồng tiền: trong bất kỳ trường hợp nào nó cũng chỉ là giá trị trao đổi đơn thuần. Nói cách khác, quy định ư nghĩa bằng giá trị ngôn ngữ là cứ xoay tṛn trong ṿng luân chuyển, và thứ ṿng luẩn quẩn này trong kư hiệu học hoàn toàn tương ứng với ṿng luẩn quẩn điển h́nh của «kinh tế học thông tục khi nó đă chấp nhận trước giá trị của một món hàng để quy định giá trị của các món khác» [21].

 

Như ta biết, để vượt thoát ṿng luẩn quẩn này, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển đă t́m cách «thâm nhập vào cái tổng thể mật thiết và hiện thực của các quan hệ sản xuất» [22], và chính cố gắng này đă dẫn nó đến việc quy định giá trị bằng lao động. Song đúng là nó vẫn c̣n trộn lẫn đủ thứ, c̣n bị tù túng bởi những ngoại hiện sai lầm trong cuộc vận động trao đổi qua đồng lương được xem như «giá trị của lao động», và do đó, lại rơi vào những mâu thuẫn không tháo gỡ nổi. Chỉ đến khi Marx phân biệt rơ ràng giữa hiện tượng hời hợt với hiện thực thâm sâu của sự vật, ông mới thực sự vượt qua được những ảo tưởng do các h́nh thức trao đổi gây nên, và phát hiện ra quy luật nội tại của chúng trong lao động xă hội, khi lao động này tạo ra những món hàng trao đổi, trong đó có cả sức lao động của người công nhân.

 

Như vậy, nếu kư hiệu học có thể t́m thấy một khuôn mẫu nào đó cho nó trong kinh tế học, th́ hẳn khuôn mẫu ấy không thể được rút ra từ kinh tế chính trị học thông tục, mà chính là từ kinh tế học của Marx: nói cách khác, vấn đề là giải thích cuộc vận động hời hợt của những trao đổi dấu hiệu bằng cuộc vận động tầng sâu của sản xuất xă hội. Thật vậy, nếu cứ đi t́m bí ẩn của ư nghĩa một dấu hiệu trong loại quan hệ phân biệt nó với các dấu hiệu khác, ta sẽ tự bắt ḿnh xoay tṛn vô tận trong ṿng luẩn quẩn, bởi v́ loại quan hệ đối lập đó thực chất ĐĂ là các quan hệ ư nghĩa. Nếu ta nói rằng redouter không phải là craindre, th́ điều này hàm nghĩa là ta ĐĂ biết ngầm rằng redouter có nghĩa là «craindre một cách mănh liệt», và ta phải phát biểu sự hiểu ngầm này ra mà thôi, nếu bây giờ muốn xác lập sự phân biệt một cách minh bạch. Như vậy, ư nghĩa ĐĂ luôn luôn được giả định trước trong cuộc luân chuyển dấu hiệu, và chính nó ĐĂ thiết lập giá trị trao đổi của những dấu hiệu này. Tách riêng ra, nó sẽ tự xác định như giá trị đúng nghĩa, và chỉ có thể được hiểu bằng lao động xă hội nào đă sản xuất ra cái dấu hiệu nơi nó h́nh thành.

 

Và hiển nhiên là, trong sự sản xuất ra dấu hiệu, điều quan trọng nhất không phải là những kư hiệu độc đoán, bởi v́ thật ra chúng chỉ thừa hưởng phần chủ yếu của ư nghĩa có được từ loại biểu hiệu nội tại, mà chính là những biểu hiệu nội tại, bởi v́ chính chúng mới là kẻ đă quy định bằng cấu trúc vật chất riêng của ḿnh phần ư nghĩa cơ bản. Để rồi một khi đă h́nh thành, những ư nghĩa cơ bản này sẽ được chuyển giao  bằng quy ước cho loại kư hiệu độc đoán để có một sự sử dụng thuận tiện hơn, nhờ đó có thể kết hợp chúng một cách dễ dàng nhằm triển khai vô hạn.

 

Có điều, cấu trúc vật chất của loại biểu hiệu nội tại cũng chỉ có thể được hiểu bằng một hành động tự nó cũng mang tính vật chất: đấy là sự khuôn đúc yếu tố lập nghĩa theo điều kiện vật chất của phần thực tiễn xă hội mà dấu hiệu nội tại hiện ra như biểu hiện bộc phát.

 

Như vậy, sự sản xuất ra dấu hiệu xuất hiện như đối tượng của một môn kư hiệu học biện chứng. Bằng các khái niệm đặc thù, và từ cuộc vận động sản xuất vật chất, nó sẽ tái tạo tŕnh tự biện chứng thực hiệu qua đó hệ thống lịch sử của loại dấu hiệu nội tại hay biểu hiệu nghệ thuật đă h́nh thành, với các ư nghĩa nguyên khởi phản ánh một cách trực tiếp những điều kiện vật chất của thực tiễn xă hội và hiện thực khách quan của thế giới bên ngoài. Rồi sau đó, biện chứng kư hiệu sẽ tự phát huy bằng cách tổ chức các ư nghĩa tuy cơ bản song c̣n mù mờ này thành một hệ thống lôgíc các kư hiệu độc đoán biệt lập. Bằng quy ước, chúng thay thế cho các biểu hiệu nội tại; bằng sự lặp lại không giới hạn những kết hợp thao tác, chúng cho phép ta rút ra, từ những kiến thức sở đắc trong thực tiễn, tất cả mọi hệ quả có thể tiếp thu, và vượt qua hiện trường của kinh nghiệm cảm tính một cách lư tưởng và không giới hạn.  

 

     

 

 



 

CHÚ THÍCH

 

[01] Trích dịch từ tiểu luận De la Phénoménologie à la Dialectique Matérialiste de la Conscience (1) [Từ Hiện Tượng Học đến Biện Chứng Duy Vật của Ư Thức (1)], đăng trên tạp chí La Nouvelle Critique, số 79-80, 1974, tr. 37-42. Địa chỉ truy cập: http://www.viet-studies.org/TDThao

[02] Saussure, Ferdinand de (1857-1913). Cours de Linguistique Générale. Publié par Charles Bally et Albert Sechehaye, avec la collab. de Albert Riedlinger. Paris: Payot, 1967. Được xây dựng từ giáo tŕnh của Saussure trong ba năm học (1906-1911), và xuất bản năm 1915, sau khi tác giả mất hai năm.

[03] Thuật ngữ signe [sign] trong tiếng Pháp có thể được dịch là kư hiệu trong nghĩa hẹp [như trong signe linguistique = kư hiệu ngôn ngữ] hoặc biểu hiệu hay dấu hiệu trong nghĩa rộng. Ở đây, dựa trên ngữ cảnh, signe sẽ được dịch bằng từ trước hay các từ sau, tùy mức độ từ hẹp nhất đến rộng nhất. Theo Saussure, signe luôn luôn gồm có hai mặt mà ông gọi là signifiant [signifier] và signifié [signified] (xem chú thích số 07 bên dưới), được kết hợp trong một quan hệ «độc đoán». Về điểm này, đối với nhà ngôn ngữ học Emile Benveniste, nếu signifiantsignifié quan hệ bất khả phân như mặt phải và mặt trái của một tờ giấy theo chính thí dụ của Saussure, th́ quan hệ giữa hai yếu tố này không thể nào là «độc đoán», mà phải được xem là tất yếu (không làm ǵ có một tờ giấy chỉ có mặt phải, không có mặt trái!). Nói cách khác, Saussure đă lẫn lộn quan hệ giữa hai mặt của kư hiệu với quan hệ giữa kư hiệu với vật quy chiếu [référent = referent], bởi v́ đúng thật là không có một quan hệ thiết yếu nào giữa âm hoặc từ chó với con chó ngoài đời, khi người Pháp gọi cùng một sinh vật này là chien, người Anh là dog, người Đức là Hund, v. v...

[04] Trong tiếng Pháp, verbal chỉ tất cả những ǵ được diễn đạt bằng ngôn từ hơn là bằng các dấu hiệu khác, tuy langage verbal thường được dịch chính xác nhưng hạn hẹp là ngôn ngữ nói. Ở đây, v́ verbal c̣n thường được dùng kèm với nhiều từ khác nữa, để có thể dịch nhất quán tất cả các trường hợp trên, chúng tôi thử nghiệm dịch là âm từ, để có thêm ngoài ngôn ngữ âm từ (ngôn ngữ được xây dựng bằng lời nói và chữ viết, trên âm vị và từ vị), các cụm từ khác như khác biệt âm từ [différenciations verbales], kư hiệu âm từ [signes verbaux], ư nghĩa âm từ [signification verbale], cấu trúc âm từ [structure verbale], v. v...

[05] Sémiologie [semiology] thường được dịch là triệu chứng học trong bối cảnh y học, và kư hiệu học trong ngôn ngữ học. Ở đây, chúng tôi sử dụng lại từ dịch đă trở thành quen thuộc là kư hiệu học chung cho cả hai trường hợp nói ở chú thích [03]. Sau Saussure, nhưng xuất phát từ dự án sémiologie của ông, c̣n xuất hiện một môn học khác mang tên là sémiotique [semiotics, dù đôi khi vẫn c̣n tiếp tục được gọi là sémiologie]. Từ chối cho kư hiệu âm từ quy chế ưu đăi (giống như Trần Đức Thảo ở đây), bộ môn này lấy mọi phương thức biểu nghĩa làm đối tượng (thời trang, văn học, huyền thoại, văn bản, v. v…), do đó, tùy sở thích của mỗi tác giả, cũng phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau. 

[06] Symboles [symbols] có thể được dịch là kư hiệu như trong kư hiệu hoá học hay biểu trưng như trong biểu trưng của công lư. Ở đây, để đầy đủ, chúng tôi dùng cả hai.

[07] Signifiant, signifié thường được dịch là cái biểu đạtcái được biểu đạt, tuy đôi khi cũng có người dùng cái lập (tạo) nghĩacái thụ nghĩa. Ở đây, để tránh sự lặp lại, chúng tôi dùng cả hai. Mặt khác, quan niệm của Saussure về signifiant, và về kư hiệu ngôn ngữ như sự kết hợp giữa một signifiant với một signifié không phải là không đặt vấn đề. Kư hiệu ngôn ngữ nói đây có phải là từ chăng? Trong trường hợp này, nếu lấy thí dụ ở tiếng Pháp chẳng hạn, phải xem hai signifiants khác nhau như chevalchevaux là biểu hiện của cùng một từ như tabletables chăng? Nó có thể là đơn vị nhỏ hơn từ như tiền tố néo- [tân-] chăng, bởi v́ tiển tố này cũng kết hợp một signifiant với một signifié như mọi kư hiệu khác? Nó có thể là từ sáp nhập như au (à le) và aux (à les) chăng, khi cùng một signifiant bất khả phân này lại tương ứng với hai signifiés, nghĩa là phải kết hợp với hai khái niệm khác nhau?

[08] «Le symbole a pour caractère de n’être jamais tout à fait arbitraire; il n’est pas vide, il y a un rudiment de lien naturel entre le signifiant et le signifié. Le symbole de la justice, la balance, ne pourrait pas être remplacé par n’importe quoi, un char, par exemple» (Saussure, sđd, tr. 101).

[09] «[On peut donc dire que] les signes entièrement arbitraires réalisent mieux que les autres l’idéal du procédé sémiologique; c’est pourquoi la langue, le plus complexe et le plus répandu des systèmes d’expression, est aussi le plus caractéristiquede tous; en ce sens la linguistique peut devenir le patron général de toute sémiologie, bien que la langue ne soit qu’un système particulier» (Saussure, sđd, tr. 101).

[10] «Dans la langue, comme dans tout système sémiologique, ce qui distingue un signe, voilà tout ce qui le constitue» (Saussure, sđd, tr. 168). Đối với Saussure, ngôn ngữ âm từ là một hệ thống kư hiệu, và kư hiệu không phải là vật thể, mà là quan hệ: trong một trạng thái ngôn ngữ, tất cả tùy thuộc vào những quan hệ (hoặc đối lập, hoặc khác biệt, hoặc kết hợp) giữa các kư hiệu âm từ hay đơn vị ngôn ngữ. Trong quá tŕnh tạo câu chẳng hạn, một đơn vị ngôn ngữ (âm hay từ) chỉ có thể được nhận diện bởi sự khác biệt với nó của những đơn vị đi trước hay đi sau trên trục ngữ đoạn [syntagmatique = syntagmatic, trục phân bố vị trí các đơn vị], và bởi những đơn vị có thể hoán vị với nó trên trục ngữ h́nh [paradigmatique = paradigmatic, trục chọn lựa giữa các đơn vị cùng tập hợp]. «Tôi yêu em» chỉ có nghĩa chính xác nếu người nghe phân biệt được «yêu» với «tôi» và «em» trong đoạn âm thanh này và trên các vị trí này (bởi v́ «tôi yêu em» khác với «em yêu tôi», và «yêu em tôi»), đồng thời biết rằng «yêu» khác với «thương», «mến», «thích», «ưa», «quư»… trong cùng tập hợp «t́nh cảm tích cực» chẳng hạn. 

[11] Signification [signification, meaning] và sens [meaning, significance] đều được dịch là nghĩa hay ư nghĩa, mặc dù hai từ này thường được phân biệt hơn là sử dụng như từ đồng nghĩa trong tiếng Pháp. Ở Saussure, không có định nghĩa rơ ràng về sens, và từ này có thể được tiếp cận, hoặc như kết quả của một sự cắt xén (từ một ḍng tư tưởng, một mảng chữ viết hay một khối âm thanh c̣n bất định) hay một hiện tượng kết hợp, hoặc như một giá trị xuất phát từ hệ thống ngôn ngữ. Ở các nhà ngữ học khác (Leonard Bloomfield, Zellig S. Harris, Stephen Ullmann, André Martinet...), sự phân biệt cũng không thống nhất.

Do đó, cách đối lập phổ biến nhất hiện nay trong bối cảnh ngôn ngữ học có lẽ vẫn là : a) hoặc nh́n nhận hai loại quan hệ khác nhau, và xem signification như thuộc về quan hệ biểu đạt [rapport de signification, xuất phát từ sự đối lập giữa các từ vựng trong cùng một hệ thống ngôn ngữ], c̣n sens như thuộc về quan hệ chỉ định [rapport de désignation, xuất phát từ liên hệ giữa kư hiệu với vật quy chiếu bên ngoài] ; b) hoặc chấp nhận thông kiến xem signification như ư nghĩa của một từ, khác với sens là ư nghĩa của một đoạn văn hay một văn bản. 

[12] «Prenons d’abord la signification telle qu’on se la représente et telle que nous l’avons figurée... Elle n’est ... que la contre-partie de l’image auditive» (Saussure, sđd, tr. 158). Ở đây, chúng tôi mạn phép dịch contre-partie mặt trái, v́ Saussure thường dùng h́nh ảnh mặt phải và mặt trái của một tờ giấy để diễn tả tính bất khả phân của hai yếu tố cái biểu đạtcái được biểu đạt trong kư hiệu ngôn ngữ.

[13] «[Quand on parle de la valeur d’un mot, on pense généralement et avant tout à] la propriété qu’il a de représenter une idée, [et c’est là en effet un des aspects de la valeur linguistique]» (Saussure, sđd, tr. 158).

[14] «Dans l’intérieur d’une même langue, tous les mots qui expriment des idées voisines se limitent réciproquement: des synonymes comme redouter, craindre, avoir peur n’ont de valeur propre que par leur opposition; si redouter n’existe pas, tout son contenu irait à ses concurrents (Saussure, sđd, tr. 160).

[15] «Dans tous ces cas, nous surprenons donc, au lieu d’idées données d’avance, des valeurs émanent du système. Quand on dit qu’elles correspondent à des concepts, on sous-entend que ceux-ci sont purement différentiels, définis non pas positivement par leur contenu, mais négativement par leurs rapports avec les autres termes du système. Leur plus exacte caractéristique est d’être ce que les autres ne sont pas» (Saussure, sđd, tr. 162).

 [16] « ... en français un concept «juger» est uni à l’image acoustique juger; en un mot, il symbolise la signification; mais il est bien entendu que ce concept n’a rien d’initial, qu’il n’est qu’une valeur déterminée par ses rapports avec d’autres valeurs similaires, et que sans elles la signification n’existerait pas» (Saussure, sđd, tr. 162).

[17] Langagelangue [language] đều được dịch là ngôn ngữ, c̣n parole [speech] là lời nói. Trong tiếng Pháp, langage vừa chỉ khả năng đặc thù của con người là khả năng giao tiếp hay hiệp thông bằng một hệ thống kư hiệu âm từ, vừa chỉ bất kỳ một hệ thống kư hiệu nào đă được xă hội quy tắc hoá (ngôn ngữ của người câm điếc chẳng hạn), trong đó có các hệ thống kư hiệu âm từ riêng của mỗi cộng đồng dân tộc gọi là langue. Như vậy langage [ngôn ngữ theo nghĩa rộng], với tư cách là một đặc tính chung của loài người, xuất phát từ khả năng biểu trưng của con người, và bao gồm hai bộ phận: langue [tiếng nói hay ngôn ngữ theo nghĩa hẹp] và parole lời nói. Langue là một sản phẩm xă hội, là cái phần của langage tồn tại trong ư thức của mọi thành viên thuộc một cộng đồng ngôn ngữ nhất định, là tổng số những dấu ấn do thực tiễn xă hội để lại trong trí óc của mỗi cá nhân qua vô số hành vi ngôn ngữ cụ thể. Trái lại, parole là phần ngôn ngữ được vận dụng thực sự bởi mỗi cá nhân, là phần hành vi ngôn ngữ cụ thể ở mỗi người.  

[18] «Il est à remarquer que nous avons défini des choses et non des mots; les distinctions établies n’ont donc rien à redouter de certains termes ambigus qui ne se recouvrent pas d’une langue à l’autre. Ainsi en alle­mand Sprache veut dire «langue» et «langage»; Rede correspond à peu près à «parole», mais y ajoute le sens spécial de «discours». En latin sermo signifie «langage» et «parole», tandis que lingua désigne la «langue», et ainsi de suite. Aucun mot ne correspond exactement à l’une des notions précisées plus haut; c’est pourquoi toute défi­nition faite à propos d’un mot est vaine; c’est une mauvaise méthode que de partir des mots pour définir les choses» (Saussure, sđd, tr. 31).

[19] «Elles sont toujours constituées: 1) par une chose dissemblable sus­ceptible d’être échangée contre celle dont la valeur est à déterminer; 2) par des choses similaires qu’on peut comparer avec celles dont la valeur est en cause.

 Ces deux facteurs sont nécessaires pour l’existence d’une valeur. Ainsi pour déterminer ce que vaut une pièce de cinq francs, il faut savoir: 1) qu’on peut l’échanger contre une quantité déterminée d’une chose dif­férente, par exemple du pain; 2) qu’on peut la comparer avec une valeur similaire du même système, par exemple une pièce d’un franc, ou avec une monnaie d’un autre sys­tème (un dollar, etc.). De même un mot peut être échangé contre quel­que chose de dissemblable: une idée; en outre, il peut être comparé avec quelque chose de même nature: un autre mot» (Saussure, sđd, tr. 159 à 160).

[20] «L’économie politique vulgaire se borne, en fait, à transposer sur le plan doctrinal, à systématiser les représentations des agents de la production, prisonniers des rapports de production bourgeois, et à faire l’apologie de ces idées. Il ne faut donc pas s’étonner qu’elle se sente tout à fait à l’aise précisément dans cette apparence aliénée de rapports économiques, phénomène évidemment absurde et parfaitement contradictoire – d’ailleurs toute science serait superflue si l’apparerence et l’essence des choses se confondaient - ; il n’y a pas à s’étonner que l’économie politique vulgaire se sente ici parfaitement dans son élément et que ces rapports lui paraissent d’autant plus évidents, que leurs liens internes restent plus dissimulés, tandis que ces rapports sont courants dans la représentation qu’on s’en fait ordinairement» = «Thật ra, kinh tế chính trị học thông tục chỉ lư thuyết hoá và hệ thống hoá những biểu thị của các tác nhân sản xuất c̣n bị tù túng trong quan hệ sản xuất tư sản, và biện hộ cho loại ư tưởng này. Do đó, chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên khi nó cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong chính cái phần ngoại hiện tha hoá của những quan hệ kinh tế ấy - điều hiển nhiên là phi lư và cực kỳ mâu thuẫn, bởi v́ nếu phần ngoại hiện với bản chất của sự vật chẳng khác chi nhau th́ có khoa học cũng bằng thừa! Vậy, không có ǵ đáng ngạc nhiên khi kinh tế chính trị học thông tục cảm thấy hoàn toàn tự nhiên ở đây, và những ràng buộc bên trong càng bị che giấu kỹ bao nhiêu, th́ các quan hệ bên ngoài này càng có vẻ hiển nhiên đối với nó bấy nhiêu, đồng thời trở thành quan hệ hiện hành trong cách biểu thị thông thường của người đời về kinh tế» (Marx, Karl. Le Capital. Livre troisième: le procès d’ ensemble de la production capitaliste. Paris: Ed. sociales, 1950-1960. Q. 8, tr. 196).

[21] «Destutt [de Tracy] dit bien d’un côté que les choses qui forment la richesse représentent le travail qui les a créées; mais, de l’autre, il prétend qu’elles tirent leurs deux valeurs différentes (valeur d’usage et valeur d’échange) de la valeur du travail. Il tombe ainsi dans la platitude de l’économie [politique] vulgaire qui admet préalablement la valeur d’une marchadise (du travail, p. ex.) pour déterminer la valeur des autres» = «Một mặt, Destutt de Tracy nói rơ ràng rằng những sự vật cấu thành của cải biểu hiện phần lao động đă tạo ra chúng; mặt khác, ông lại cho rằng hai loại giá trị khác nhau của chúng (giá trị sử dụng và giá trị trao đổi) đều được rút ra từ giá trị của lao động. Như vậy, ông rơi xuống tŕnh độ tầm thường của kinh tế [chính trị] thông tục, khi nó chấp nhận trước giá trị của một thứ hàng hoá (lao động, chẳng hạn) để xác định giá trị của những món hàng khác» (Marx, Karl. Le Capital. Livre premier: le développement de la production capitaliste. Paris: Ed. sociales, 1950-1960. Q. 1, tr. 92).

[22] «Je fais remarquer une fois pour toutes que j’entends par économie politique classique toute économie qui, à partir de William Petty, cherche à pénétrer l’ensemble réel et intime des rapports de production dans la société bourgeoise, par opposition à l’économie vulgaire qui se contente des apparences, qui rumine sans cesse, pour son propre besoin et pour la vulgarisation des plus grossiers phénomènes, les matériaux déjà élaborés par ses prédécesseurs, et se borne à ériger pédantesquement en système et à proclamer comme vérités éternelles les illusions dont le bourgeois aime à peupler son monde à lui, le meilleur des mondes possibles» = «Xin lưu ư một lần dứt khoát rằng: tôi gọi là kinh tế chính trị học cổ điển bất cứ thứ kinh tế nào, từ William Petty trở đi, t́m cách thâm nhập vào cái tổng thể hiện thực và mật thiết của những quan hệ sản xuất trong xă hội tư sản, tương phản với thứ kinh tế chỉ dừng lại trên những biểu hiện bên ngoài là kinh tế thông tục. Để thoả măn nhu cầu riêng và phổ biến một cách dung tục những hiện tượng thô lậu nhất, thứ kinh tế sau không ngừng nhai đi nhá lại những tư liệu đă được soạn thảo trước nó, rồi tự giới hạn như các nhà thông thái rởm vào việc dựng thành hệ thống, đồng thời tôn xưng như chân lư vĩnh cửu, loại ảo tưởng mà giai cấp tư sản ưa thả vào thế giới của hắn, cái thế giới [coi như] tốt đẹp nhất có thể tồn tại» (Marx, Karl. Le Capital. Livre premier: le développement de la production capitaliste. Paris: Ed. sociales, 1950-1960. Q. 1, tr. 83).