DiTim

Mai Ninh

Đi Tìm

 

Thành Phố

Cô vào đến thành phố lúc đêm chưa đi, một đốm sáng rất nhỏ ửng góc trời lộ ra sau những toà cao ốc. Đồng hồ trên tay chưa chỉnh lại sai biệt, cô cũng không thấy cần thiết tìm biết giờ giấc lúc này. Khi chuyến đi quá dài và không gian mây trời sông biển vừa vượt qua đã là mông mênh đến khó lòng ý thức, thì có hề gì lúc này là nửa đêm hay sắp gần về sáng.

              Cô dừng lại trước bàn tay đỏ bắt bộ hành chờ đợi ở một ngã tư. Vài chiếc xe chạy qua, lướt rất êm trên mặt đường còn bóng nước. Trời có lẽ vừa tạnh cơn mưa nhỏ. Cô là bộ hành duy nhất, không nghe tiếng giày vang giữa hè phố, chỉ cây rung lá rào rào và những con chim đêm còn lùng xục, xoè cánh chao vút dưới ánh sáng đục của những trụ đèn. Giá cô tìm một pan-nô bản đồ thành phố có thể sẽ biết nên quẹo phải hay trái ở ngã ba sắp tới. Nhưng không, cô nghĩ mình còn thời gian, thứ thời gian thật dài cho định mệnh để tự tìm ra nơi muốn đến bằng chính những dẫn dắt của tâm tưởng, khởi từ hình ảnh và lời nói vọng rất xa. Phố ấy có hàng cây sầu đau, đi về phiá đại lộ phải gặp một quán cà-phê Ý, vòng sang bên kia là một ngôi nhà thờ mang tên vị thánh – mà có nhà thờ nào không mang tên thánh đâu, như những con đường mọi nơi đều là danh nhân, anh hùng liệt sĩ. Nếu có quyền đặt tên chắc cô sẽ gọi chúng bằng những động từ bởi đời sống là một tập hợp của những hành động, như cô bây giờ, đi tìm. Sống, thở, ăn, ngủ, nhớ, quên, yêu, điên và đi tìm, và đứng ở ngã ba giữa thành phố lạ. Một lúc trong ngày, một khoảnh cuộc đời, người ta sẽ đi đến con đường mang tên điều mình cảm thấy cần hay thích làm không vì thiết yếu mà như một hành trình khám phá. Khám phá để từ đó tìm ra lối trở về. Trở về một quê nhà đã mất hút. Mất hút ngay thuở thiếu thời. Một niên thiếu chỉ khi người gặp được người mới có cơ duyên nhận ra hay tìm lại.

              Những hạt nước từ mái lầu với tàn cây cuống quít rơi trong ngọn gió rút qua không gian trống. Đã đến gần một công viên, mới thoáng cô ngạc nhiên về những bông hồng vươn trên cành vương giả long lanh bụi nước tựa đeo toàn đá qúi. Cuộn quanh hương ngất nồng dạ lý. Nơi đây hạ đang khởi đầu, ánh trở màu hồng của hoa thành sắc tím trong đêm. Trăng một vành cong nhìn xuống mấy chiếc băng đá lẩn quẩn lùm cây, một người nào như vừa ngả lưng, đầu úp chiếc mũ rơm. Có lẽ khi rạng ngày trời sẽ đầy nắng. Đêm trên cao bây giờ đổi xanh gần trong vắt. Một lần anh có nói về con rồng bay lượn quấn trời cao, vẫy vùng trên công viên vào ngày hội lớn.  Có phải nơi này? nhưng rắn rồng đã biến đi, trở về ngủ yên huyền thoại, chỉ để lại đầy đom đóm trời nhấp nháy sau vạn nghìn ô kính tầng cao.

              Qua nhiều con phố lớn hiện đại với cửa hiệu im lìm đợi sáng, cắt ngang vài ngã tư là mấy con đường khuất. Lúc này tất cả đóng kín, nhịp thở trong các căn lầu thiêm thiếp nhẹ đều hay ngất hụt bởi cơn mơ thì chúng cũng thật sâu sau cửa khép. Bên kia những mái nhà ngói nâu xoè xà gỗ với ít nhiều trạm trổ đầu thú thời tiền sử, biết đâu không xuất hiện một giáo đường lẩn trong phố thị. Cô quên hỏi anh, chiếc thập tự có vút cao trên ngọn tháp gothique hay chỉ nhú khỏi đỉnh thếp vàng một nóc nhà thờ tròn trĩnh. Liệu có thể nhìn thấy từ xa mấy quả chuông rung lên từng hồi, không để chiêu gọi con chiên mà giản dị là khúc nhạc vui cho lũ chim trốn đông, lạc về từ nửa vòng kia trái đất. Nhưng chẳng sao, cô còn bao nhiêu thời gian trước mặt để tìm ra căn phòng cao hơn ngôi nhà thờ ấy. Chiếc đồng hồ tròn trên mặt tường một cơ quan hành chính bỗng kính coong đổ hồi, chẳng hiểu bao nhiêu tiếng, âm thanh vang như giục giã, hối thúc thành phố mau mở mắt. Nhưng cô không muốn anh thức giấc lúc này, đê bước vào nhìn anh còn thiếp thở giữa nệm giường, co người trong vị trí sơ sinh, cô đơn cùng níu giữ.

              Im ỉm mặt nhà cửa đóng, thoắt đâu trờ ra trên bờ hè hai hình người xiêu xiêu, áo sống lênh thênh. Tiếng đàn bà cười ngắc lên lẫn trong giọng nói lè nhè bỡn cợt. Người xô người đổ nhào dưới gốc cây. Vỏ chai loong coong lăn trên gạch đường. Chiếc xe chạy ngang nhoá ánh đèn vào mái tóc sáng kim. Còn vòm tóc đen kia qụy xuống rúc vào, rồi tiếng kêu bật lên chạy rút đến cuối đường. Nó bất chợt bị chặn đứng trước cánh cửa cao dầy kiên cố, lừng lững giữa một vòng tường rộng sơn phết nhằng nhịt hình ảnh thô bạo và dòng chữ bực đục phản kháng, biểu tượng của những bức xúc thiệt thòi thiểu số. Nhưng trên đầu tường dưới hàng miểng chai xanh chĩa nhọn, chẳng rõ để chận giữ, bảo vệ điều gì bên trong, ai đó đã vẽ một câu thơ ngợi ca linh hồn và màu da đằm thổ bằng một thứ sơn đỏ máu. Vậy ra nơi này chẳng khác gì xứ cô từ đó đến. Cũng thế những tâm linh và cảnh sống bị phân chia nhiều tầng lớp cách biệt, cũng ngần ấy cách bày tỏ sự phẫn nộ thua thiệt. Cột đèn lênh khênh ngả một bóng dài nhợt nhạt, hai hình nhân đằng sau lại rít lên, ngật ngưỡng quấn nhau rạt vào ngõ khuất.

              Ngoài vài khu đất trống bao quanh mấy dãy chung cư nước sơn ố từng vệt, các ngôi nhà quanh đây thấp hẳn xuống, cây trĩu cành ngả lá trong ngọn gió cuối đêm. Đèn đường đang nhòa với tia trăng cùng ánh trời sắp ửng phía bên kia mái ngói. Cách chia không mấy con phố mà nơi đây chẳng còn chút gì của thế giới lừng lững nhà cửa tân kỳ và đại lộ rộng thênh phóng mút, tưởng chừng đoàn xe nếu chạy băng tới đầu cùng sẽ đâm thẳng vào bầu trời hay lao chìm trong biển. Hình như anh nói biển không xa thành phố, nơi những vách đá tím mọc nghiêng cắt xẻ nền trời. Trong đêm, nếu ai đó trèo tới đỉnh sẽ bắt gặp mặt trời thao thức.  Lúc nó vừa nhoi lên chút vành cam, ửng trên làn lụa biển xanh mướt thì ở vùng phố này, lời kinh cầu râm ran thứ âm ngữ lạ, cất vang từ trong gạch đá rồi bốc bay ra khỏi ngói nhà. Một chốc sau, thần linh mỏi mệt rũ áo về trời để lại con đường hẹp bắt đầu chộn rộn nhiều thứ âm thanh, người, súc vật, bát đĩa nồi niêu va chạm lẫn trong tiếng nước chảy ùa tuôn từ những khung cửa vừa toang mở đón khí trời. Giọng xướng ngôn viên đọc bản tin thời sự thấp thoáng trong điệu nhạc thổ dân dập dềnh giọng kèn râm ru. Rồi chợt bùng bùng nhịp trống thúc hối, thanh la xoèng xoèng như muốn thức tỉnh một bộ lạc còn ngái ngủ trên thân phận chìm uẩn giữa rừng thô. Trong chập choạng trở ngày, mấy cột đèn vụt tắt ngấm, thiếu ánh sáng tỏa, chúng đột trở nên xám ngoắt trơ đuột. Từ dãy chung cư và cả những ngôi nhà thấp, mấy người đàn bà nước da ngăm bóng bắt đầu lùa ra đường những đứa bé trai quần cụt mắt mật nâu lanh láu và các cô bé gái váy ngắn đeo cặp đùi tròn, tóc bện vắt đuôi. Cặp sách sau lưng, chúng nhảy lưng tưng như sóc trên bờ hè. Người lớn con nít ồn ào thứ tiếng nói líu ríu, từng tràng chữ dính vào nhau. Không ai để ý cô đứng một góc đường giương mắt ngó một phần thành phố của anh mà cô vô tình lạc đến. Cô sẽ còn loanh quanh đi nữa, qua nhiều chốn ngụ cư, nhiều khu vực bày mở ra những nếp đời cùng cảnh quan có thể giống nhau hay vô cùng khác biệt. Nhưng làm sao, trong cuộc đi tìm, cô có thể ngại ngần khi tất cả hỗn tạp về sắc tộc, văn hoá này đã họp thành thế giới mà anh đang sống.

Sớm mai rớt trên mái tóc và vai áo mấy giọt sương mưa cuối cùng của đêm. Cô tiếp tục bước vào những khu phố mở ra rồi khép lại, cố ý và tình cờ. Loay hoay, mắc cửi như các con tàu điện suýt đâm vào nhau trong mạng xe cộ đan giăng mọi ngả. Chúng vừa chuồi lên từ lòng đất sau một đêm chôn sâu trống lặng. Tiếng còi tàu cô đã tưởng phải rền lên một gọi kêu nửa thúc giục nửa âm u mất mát, cuối cùng chỉ là vang âm rèn rẹt, lẫn lộn trong giao khúc bùng rộ từ trăm nhạc khí bất hợp, ồn ào đến đinh tai của buổi mai thành phố. Những con người bất chợt hiện ra khắp nơi, hấp tấp đến đi, chạy về mọi hướng, chỉ có cành lá trên cao bình thản đón nắng trời. Cô dừng lại trước một phòng điện thoại đỏ au au đứng ở góc đường. Mấy ô kính nhỏ viền bốn bên, hơi hướm Âu châu của đầu thế kỷ bỗng đâu giạt đến xứ sở này xa tắp. Chiếc máy bên trong ống tròn đen chờ đợi. Nhưng cô đã bước ngang qua với những con số của anh nối đuôi trước mắt. 

 Cho đến lúc ngôi nhà thờ ấy hiện ra bên cạnh một khu vườn nhỏ. Nắng mai hắt hàng cây chấp chới những cánh hoa bướm trắng lung linh vào bức tường đá. Ngửng nhìn vút cao, tháp chuông treo nặng những ba chàng gù xòe váy đang đánh đòng đưa. Ba chàng quắt quay rung từng gióng, gọi chiêu hồn Esméralda đã chết bởi khờ khạo tình si. Nào ngờ ngọn chuông phía ngoài vươn oai xưa cổ nhưng tượng Chúa bên trong giáo đường thanh mảnh khiêm nhường dưới vút trần đá trắng. Những mang kính màu giản dị sáng long lanh, có tia chiếu thẳng vào một khổ người đang nằm rạp trên bực thảm. Tóc dài bù rối, bạc bẩn trên bộ quần áo thùng thình. Người ấy dường say ngủ, chung quanh chẳng còn ai khác. Cô ngồi xuống một băng ghế xa. Nỗi mỏi mệt bấy giờ dần dần ngập hai bàn chân, leo đến đùi rồi bờ vai tới đỉnh đầu. Mi mắt nặng ru thiếp cô, người dựa vào cột đá. Vài âm thanh rồ đục bỗng vọt cao rồi đổ ngược từ vòm trần dội thức cô thảng thốt. Dụi mắt nhìn về chân tượng Chúa, bộ áo và mớ tóc rối bẩn đang ngả nghiêng bên cha xứ đeo thánh giá đen tuyền che gần hết ngực áo choàng trắng muốt. Cha xứ nghiêm chỉnh tay cầm cuốn kinh, hẳn vậy. Hình người kia không ngừng rún xuống rồi bật lên tựa lò xo, cổ họng rống từng nhịp ngắt quãng. Cô ngẩn ngơ, đó là lời hát thánh?, chắc thế. Vừa lúc ấy, một giọng ténor cất đường bay cao nương theo ống tay áo trắng vẫy rộng. Cha xứ và hình nhân tiếp tục bên nhau, mỗi người một bè nhạc, thanh thoát ngân nga và trần tục đứt đoạn. Không ai để tâm và đợi chờ ai, nhưng cô nghe từ đồng ca đó một hòa điệu lạ lùng. Tiếng ngân cuối cùng vừa dứt, gã bạc người chợt hét lên một tiếng chửi đổng, một tiếng rú thì đúng hơn, rồi chạy ào ra cửa, chập choạng đâm vào những hàng ghế. Hắn lướt qua cô, tóc che gần hết gương mặt đen sâu u uất, nhưng có thứ ánh sáng sắc xanh phóng ra từ hai con mắt lém dài tới thái dương. Một sức hút kéo đi, cô chạy theo ra tới ngoài. Nắng như từ cả bầu trời đứng trưa đổ ập tràn loang, choá nhoà hết sân đá trước thềm, xoá bay mọi cảnh vật. Không còn ai, không bóng người. Mãi hồi lâu, khu vườn nhỏ với hàng cây bướm trắng mới thấp thoáng trở hiện dần. Khi cô quay lại, cha xứ đứng lặng ở ngưỡng cửa, mắt nhìn mông lung thật xa, tựa tìm kiếm một điều gì.

  

 Từ đó cảm giác hư thực hoang mang, rời rã đi theo cô trên những con đường dốc lên rồi thả xuống. Ánh mắt nhìn, bàn tay với và đôi môi treo nụ cười của anh vốn chỉ trong trí nhớ đã đến lúc cần thiết trở thành hiện thực. Cô muốn mau về tới căn phòng ấy, chặng cuối của chuyến đi cũng là điểm khai mở cho không gian nhập tìm sâu hút khác. Chân buốt mỏi nhưng cố bước nhanh theo nhịp thở nhọc và gấp. Hình như qua đầu phố hẹp lại kia, cô sắp gặp cái cửa hàng dán che hết tủ kính bằng những tấm bích chương quảng cáo vidéo, băng nhạc. Cả tiệm thuốc bắc anh từng ngửi ra nực nồng mùi nhung thục qui sâm. Mấy hiệu gia vị tạp hoá Trung Âu với bảng hiệu kẻ chữ lòng khòng. Vỉa hè sẽ khó bước hẳn bởi bao thứ lặt vặt mà những con người quen cách sống dễ dãi buông thả thích vung vãi sau mình. Có phải thế không, khi cô ra đến góc một đại lộ, song song với con đường nhỏ của căn gác anh, phải thấy quán cà-phê ấy từ xa với tấm bảng tên tận cùng bằng một âm ô kẻ chữ vàng trên nền đỏ. Cửa mở sẵn, cô bước vào, đôi ba khuôn mặt ngước lên cùng tiếng chào gọn trong mắt mở ngạc nhiên. Cô nhẹ cởi áo khoác dầy, cả khăn quàng cổ, ngượng nghịu trước những cái nhìn chăm chú quan sát, họ biết cô là người lạc đến từ mùa đông đang phủ trùm trên tinh cầu nửa bắc. Chiếc thìa bé xíu đẩy vòng trong chất đậm đen chỉ vừa một ngụm. Tách cà-phê nhỏ xiu này đặc biệt thuộc về dòng sống của cô, vô cùng xa cách nơi đây. Chẳng ngờ nó đang ở trong tay và là điều duy nhất cho được cảm giác gần gũi thân quen.

              Những đốm lá rọi qua nắng đong đưa trên mặt bàn. Cây ngoài xanh mướt, nhưng chưa phải hàng sầu đông gần căn phòng anh ở. Chỉ có một con đường nhả sầu lung linh ấy trong thành phố của anh. Dù không khí và hương cà-phê xoá dần lạc lõng thì cô cũng chẳng thể ngồi lâu. Còn phải tìm cho ra hiệu sách lọt dưới vệ đường mà anh kể thường đến đó, cả ngôi lầu đồ sộ từng là nơi đấu xảo quốc tế xưa kia. Bao nhiêu hình ảnh, nơi chốn anh đã nhắc đến mà cô chẳng thể nhớ hết. Nhưng cuộc hành trình nào cuối cùng cũng là một vòng tròn phải khép. Nếu cứ đi mãi, sẽ nhận ra, sẽ gặp tất cả, sẽ vòng trở về. Sẽ gặp những gì ta chưa từng thấy nhưng thật ra đã hiện hữu, khuất chìm yên ngủ từ một sâu thẳm nào, hơn cả ký ức. Tựa khuôn mặt tự nó đã thân yêu đến nỗi nhoà đi tất cả đường nét, chỉ còn lại một điều mà người ta gọi là tưởng nhớ.

 

Căn Phòng

              Cuối cùng cô đã đến nơi. Căn phòng không để tên người nhưng cánh cửa mở ra nhẹ hẫng, ai đó vừa mới đi ra ơ hờ quên khóa hay cố tình khép đó đợi chờ. Chiều sắp tan đi trên mấy tia sáng yếu nghiêng ngang sàn gỗ. Một khoảnh thôi, gần cửa sổ không màn che. Còn góc kia đã mờ mờ mảng tối. Chẳng có mấy đồ vật trong phòng và tất cả cùng im lặng. Chúng đang nhìn ngắm cô từ những sợi tóc quên vén sau tai đến đôi vớ dầy lạ kỳ giữa hạ. Rồi chúng lại nhìn nhau. Chiếc bàn chân qùy đã cũ nhưng vẫn đỏ một màu môi thiếu nữ Trung Quốc xưa, thầm thì với cái ghế mây gần kề. Mấy lát mây nghe gì rúc rích cười, lay lay manh áo sơ-mi mơ màng rũ ngang thành ghế. Cành mai khô trong góc phòng giơ nhánh gầy khều nhẹ cái chụp đèn chưa chịu thức, giục thắp sáng lên cho thấy rõ mặt người. Cô đứng khựng sau cửa vào, lặng nhìn cảnh tượng. Sự thân thuộc bất ngờ ập đến nhói tim, cay mắt. Nghẹn ngào, cô hỏi thật nhỏ :

- Có ai khác từng qua đây?

Lũ đồ vật đồng loạt cất tiếng :

- Không, chẳng có ai. Anh ấy vừa đi khỏi. Chúng tôi đợi suốt từ đêm qua, vì sao cô đến muộn?

- Thế ư, tôi nào có hẹn ngày giờ.

Tấm áo ngóc vuôn hai vai, vặn vẹo thân hình vài cái, xong lại ngả người xuống. Bấy giờ mới nói, ra vẻ trách móc:

- Cô không nhớ sao, trong cái truyện gì, con chồn bảo với hoàng tử bé: ‘‘Giả dụ, nếu anh sẽ đến vào bốn giờ chiều, thì ngay ba giờ tôi đã bắt đầu hạnh phúc’’*

Thế là đủ cho hai giọt nước mấp manh trên mi mắt cô. Chiếc bóng đèn dường như cũng chạnh lòng nên chợp nháy liên hồi. Một cuốn sách lật sẵn trên bàn chênh vênh, nên chỉ chút xúc động, chút rùng mình là đã rơi độp xuống, chồng lên hai ba cuốn khác rải dưới sàn. Mấy cái chân bàn rớm nứt trở mình cựa quậy, cố đứng thẳng lên, như thể muốn đi đến gần cô, nâng đỡ :

- Vào hẳn đây với chúng tôi. Hành trình đã quá dài. Hãy nằm xuống giường nghỉ ngơi, anh ấy đã đợi ở đấy suốt đêm qua.

Chiếc giường chỉ cao hơn mặt sàn một gang tay, cái gối dài trên mặt nệm trũng dấu, vẫn nguyên dáng cong cong như vừa ấp ủ bởi thân người. Tấm chăn mỏng đẩy chùn dưới chân giường, một đầu vắt ngang miệng cái ly để trên sàn, đáy còn đọng chất nâu. Hai bức tường quanh treo tranh anh phác vẽ. Tấm thấp ở đầu giường rõ hơn, ánh sáng còn sót của ngày vuốt trên lưng một thân ngựa đang rúc đầu vào thanh cổ dài của nàng hươu qụy hai kiềng chân mảnh. Cỏ li ti trải nền, và anh vẽ thêm một cành hoa gì mọc rời vách núi cao. Có thực là núi hay đỉnh tháp nhà thờ? Trên xa, một vành trăng nghiêng, nửa khuất sau đá nửa rọi xuống những đường mực sơn đợt chùng gợi sóng. Chẳng hiểu anh có dấu đâu đó một vì sao.

Đặt túi xách ngay dưới chân, cô đi về phiá cửa sổ. Ngày đang thoi thóp với thứ ánh hoang tím chiếu ra từ nền trời còn ửng vàng cam lẫn xanh hồng một góc. Người thắp đèn của chàng hoàng tử nhỏ sắp bắt đầu châm ngọn đèn đầu tiên trên thành phố này, trên ngôi giáo đường mang tên vị thánh của anh đang sẫm màu trong mắt cô cúi xuống buổi chiều. Rồi sau đó theo trái đất xoay vần, từng người đốt đèn khác sẽ lần lượt thắp sáng xứ sở mình. Sau nơi này sẽ tới nước Nga mênh mông, Ấn-Độ hỗn tạp, qua đến Âu Châu phiền muộn...để muôn trùng ấy, khi đèn đêm bắt đầu rọi trên phố biển của cô thì ngoài cửa sổ phòng anh, mặt trời chớm rạng một ngày mới. Anh và cô sống thở trên một tinh cầu quá bao la, nên hội ngộ là định mệnh khó đến hai lần. Làm sao như cậu hoàng tử bé, cứ chạy quanh trên hành tinh nhỏ xíu của mình và chỉ cần mỗi phút quay theo một hướng là trong một ngày được biết bao lần gặp ngay điều cậu hằng mơ ước, nhìn thấy mặt trời lặn.

Dưới sân sâu, hoàng hôn ấy sắp ngập trên vườn trúc mà mỗi buổi sáng trưa anh nghe gió len, reo vui xào xạc. Mấy con chim màu biển xám không biết từ đâu lạc về lúc cúc trên những mái nhà gần nhất. Cô bỏ giầy cởi áo bước vào phòng tắm. Đèn rọi qua gương khuôn mặt mấy đêm ngày chẳng ngủ và không trang điểm. Lặng nhìn, màng trắng trần của da thịt, từng vùng nổi chìm của thân thể bây giờ đang hiển hiện bên cạnh những đồ vật vương đầy hơi hướm anh. Sự kề cận như thể chứng thực thêm rằng cuộc đi tìm, sự có mặt, căn phòng này là có thật. Nhưng anh đã đi đâu? Bàn tay, đôi môi và sợi tóc thơ trẻ sao không có đây để chạm vào, cuốn sâu, luồn lách cho tung hoan những đợi chờ khát bỏng. Từng làn nước túa từ vòi sen dần dần hạ cơn nóng hấp người từ khi cô đặt chân xuống thành phố. Hình thù mọi vật trong phòng thoang thoáng mênh mênh. Ngọn đèn vẫn lười biếng im lìm, lờ đi bóng tối trong nhịp thở chậm khó của mấy chân bàn, tiếng cựa mình xô đẩy giữa các lạt mây trên mặt ghế, lời những cuốn sách thì thào. Có lẽ chúng ngậm ngùi với nhau về nỗi cô đơn, sự vắng mặt mà chúng biết cô đang chơi vơi.

Thắp ngọn nến nhỏ để sẵn trên bàn đọng những giọt sáp khô, rồi cô ngồi xuống bệ giường đưa tay vuốt dài lưng chiếc gối, nhẹ nằm nghiêng bên cạnh. Từ gối chăn đưa lên một làn hơi, một mùi nồng hấp mơn man. Chiếc gối vẫn cong hình thù mềm mại. Đêm đang lan dần trên thành phố cùng giọng kèn đồng chẳng hiểu ở ngõ đường hay công viên nào gần đây rút dồn từng hồi thao thức. Tuy thế vẫn chẳng lấp nổi tiếng tàu điện vọng từ xa. Lần này thì cô nghe rõ âm vang gọi kêu, giục giã tha thiết của nó. Có thể anh đang bước lên tàu để trở về, mang theo mùi hương sầu đông rơi trên con đường nhỏ. Cô đã bước qua dưới đó cuối buổi chiều. Anh sẽ đẩy cánh cửa vẫn khép hờ như thế, rồi đến bên giường với se lạnh của đêm. Vầng trăng nửa khuya càng rực đắm thêm các ấm vuốt trên da. Những vũng tối sáng khởi đầu chao lướt để sau đó rực bồng lên với gió tứ phương ùa tới, cuồng táp vào phòng. Anh thầm thì đó là thứ gió hè nao nồng vị muối và rong biển. Nhưng cô nghe dường như có thốc ngựa thúc đạp lá rừng, đuôi ngựa mướt dài quất từng đường vừa mịn vừa xót điếng. Cho đến lúc cô cong người nấc lên rồi rơi xuống, nàng hươu sao xoãi rạp thở hơi dốc cuối. Trước khi mê thiếp, qua bờ vai rịn ướt của anh kề ngang tầm mắt, cô thoáng thấy trên bức tranh chỉ còn lá cỏ dưới trăng nhưng ngọn sao mai vừa mới được ai treo, nhỏ nhoi, xa vời. Ngựa đã bốc hươu bay biến, để thoảng trở về một chút xạ hương.

          

Âm thanh rào rào, mơ hồ tràn tới từ một cõi nào rồi lớn dần, rồ lên từng đợt. Cô choàng thức dậy giữa một không gian rưng sương trắng. Tấm áo sơ-mi của anh dịu trên da thịt nhưng một cảm giác đau cấn dọc theo lưng. Bàn tay sờ chạm vào một nền giấy, hoá ra toàn là sách. Nghiêng người, cố mở mắt nhưng chỉ nhận ra lờ mờ những cái tựa, những tên nào Borges, Emily, Pasternak…Có phải là bao cuốn sách trong phòng anh? Sao chúng trải nệm cô nằm, sao chúng im lìm, chẳng còn nói nhỏ với nhau về những câu thơ. Sao không một tiếng động nào ngoài ồ ạt của sóng. Cô thất thanh gọi tên anh và ngồi vụt dậy, chạy về hướng sáng, hình như là cửa sổ. Sững sờ trước khung cảnh hiện ra, dù tất cả thế giới trong mắt cô bây giờ chùng chùng một lớp khói mênh mông. Biển từ phương bắc đã dâng lên, lấp cả một phần thành phố. Từng dãy nhà, cây cối, đường xá, công viên còn lại sẽ biến mất dần dưới màn xám nhờ của nước. Hất tung lên cao bao con sóng trắng. Cô cuống cuồng tìm kiếm những hình ảnh mới vừa nhìn thấy trước đây. Phố thổ dân với các cột đèn lênh khênh và nóc nhà ưu phiền lời kinh cầu buổi sáng. Con đường nực mùi thuốc bắc và gia vị. Khu vườn hoa trung tâm cùng những người nhạc sĩ kéo hồ cầm. Cô chợt nhận ra trên đầu sóng, tháp chuông cao có ba chàng gù quay tít, loạn cuồng chung quanh một dáng áo màu óng ả, lắc lư điệu múa. Thế ra, nàng gitane rồi cũng trở về vào phút giây định mệnh. Nhưng biển đã hút hết cả những hồi chuông giải thoát vào lòng sâu trái đất. Chẳng ngờ cạnh đỉnh chuông còn hàng cây bướm trắng ngả nghiêng. Bóng gã hình nhân chấp chới trên đầu ngọn cùng áo choàng trắng phất phơ của cha xứ. Họ vẫn tiếp tục đồng ca bài hát thánh hay đang níu nhau bay khỏi cõi trần?

Biển càng trào sâu, không gian và bầu trời bên trên càng sáng trưng, huyền hoặc. Nước vừa tràn lan vừa dồn dập dâng cao. Sầu đông hai hàng hè phố con đường anh quen thuộc đảo nghiêng. Đồ vật trong phòng đang cuống cuồng gọi anh. Cô quay đi để không phải nhìn chúng bị cuốn băng ra khỏi cửa sổ, tuôn theo giòng nước. Biết sẽ đến phiên mình, cô tuyệt vọng ngoảnh về cánh cửa ra vào. Không có gì ngoài một khung chữ nhật trống câm sắp bị xoá đi trong sương trắng.

 

Vài tiếng đập cánh xành xạch chớp qua, tiếp theo những tiếng kêu chói rốc, khan khô của loài hải âu khiến cô bàng hoàng bừng tỉnh. Cả một không gian bao la trước mặt. Thủy triều rút biển ra xa, xa mút. Cô đau cóng và ngạc nhiên thấy mình chân lún trong vũng nước, trên người vẫn chiếc áo dạ mùa đông. Biển cuốn đi để lại thênh thang những đầm cát cuộn, gió buốt chạy lăn tăn trên màn nước đọng. Bầu trời xám đục, không mặt trời lẫn trăng sao, không thể nói sáng hay chiều. Mà đêm hay ngày thì có hề chi giữa mơ tìm ảo thực.  

Mai Ninh

* Le Petit Prince, A. de Saint Exupéry, éd Gallimard (France)