Marc Chagall

Marc Chagall

           

                                                         

                                                                                               

ĐỜI TÔI                                                                                  

Mai Ninh chuyển ngữ

 

Đoạn 11

 

Nước Nga phủ đầy giá lạnh.

Lénine đã làm nó đảo lộn, giống như tôi lật ngược những tấm tranh của mình.

Bà Kchessinsky đã ra đi. Lénine đọc diễn văn từ trên ban công. Tất cả đều ở đấy. Mấy chữ R. S. F. S. R.* đã đỏ rực lên Các nhà máy ngừng hoạt dộng.

Những chân trời lộ ra.

Chỉ có không gian và cái trống rỗng.

Chẳng còn bánh mì. Những con chữ màu đen trên các cáo thị buổi sáng làm tắc nghẽn tim tôi.

Cuộc đảo chính đã xảy ra, Lénine, chủ tịch của Sownarkom**. Lounatcharsky, chủ tịch của Narkompross***. Trotsky đã có mặt ở đấy. Zinowieff cũng vậy. Còn Uritzky, ông ta trông chừng các lối vào Hội đồng lập hiến.

Tất cả đều ở đó và tôi… thì ở Witebsk.

Tôi có thể không ăn trong nhiều ngày, ngồi gần cái cối xay lúa để nhìn cây cầu, nhìn bọn ăn xin, đám khốn cùng vác trên người những gánh nặng. Tôi có thể chần chờ trước phòng tắm công cộng để ngó những người lính cùng vợ bước ra, với cành bu-lô trong tay. Tôi có thể loanh quanh bên dòng sông, gần nghĩa trang…

Tôi có thể quên anh, Wladimir Ilyitch, anh nữa Lénine, cả Trotsky…

Thế nhưng, đáng lẽ nên sống yên lành để vẽ tranh thì, thay cho tất cả các thứ ấy, tôi lại lập ra một Trường Mỹ Thuật, trở thành giám đốc, thành chủ tịch và kiêm luôn tất cả những chức vụ nào bạn muốn.

“Thật hạnh phúc !”

“Thật khùng điên ! ”, vợ tôi đã nghĩ.

 

Lounatcharsky tươi cười đón tiếp tôi trong văn phòng ở điện Kremlin. Tôi đã gặp ông ấy một lần tại Paris, trước chiến tranh ít lâu. Thuở đó ông là nhà báo, đã tới xưởng vẽ của tôi ở “Tổ ong”. Mắt đeo kính, chòm râu cằm nhỏ, vẻ mặt tựa một thần đồng nội. Ông ta tới xem tranh tôi để viết một bài báo. Nghe nói ông theo chủ nghĩa của Marx. Nhưng kiến thức của tôi về chủ nghĩa ấy lại rất giới hạn, tôi chỉ biết Marx là một người Do Thái có bộ râu dài màu trắng. Tôi đã nhận thấy là nghệ thuật của mình hẳn không phù hợp với ông ta. 

Tôi nói với Lounatcharsky :

“Cần nhất, xin đừng hỏi tại sao tôi đã sơn màu xanh da trời hay màu xanh lá cây, và vì sao con bê lại thấy mình trong bụng con bò cái v. v… Mặt khác, nếu Marx khôn ngoan đến thế thì tôi đồng ý để ông ấy được hồi sinh và cắt nghĩa cho bạn hiểu”.

Tôi cho Lounatcharsky xem tranh, lật thật nhanh. Ông mỉm cười, im lặng viết vào sổ tay. Tôi có cảm tưởng ông ấy đã ghi nhớ cuộc gặp gỡ này, mãi mãi, như một kỷ niệm xấu. 

Thế mà, giờ đây ông trịnh trọng xác định nhiệm vụ mới của tôi.

Tôi trở về Witebsk một ngày trước lễ kỷ niệm lần đầu về cuộc Cách mạng tháng mười. Cùng với nhiều nơi khác, thành phố tôi chuẩn bị ăn mừng bằng cách trang hoàng các con đường với những tấm bích chương lớn. Tỉnh tôi có khá nhiều thợ sơn nhà. Tôi họp tất cả lại, từ trẻ tới già, và nói :

- Hãy nghe đây, các bạn và con cái của các bạn đều sẽ là học trò trường tôi. Hãy đóng cửa các hiệu vẽ quảng cáo và bôi bác lem luốc của bạn đi. Mọi đơn đặt hàng đều qua trường chúng ta, rồi các bạn sẽ phân phát cho nhau. Đây này, một tá hoạ cảo, hãy vẽ chúng lên những tấm vải lớn, và vào cái ngày mà đoàn thợ thuyền diễu hành qua tỉnh, cờ với đuốc trong tay, các bạn sẽ đi dán chúng trên các bức tường trong thành phố chúng ta và cả ở mấy vùng phụ cận.

Tất cả đám thợ sơn nhà cửa này, từ những ông già có râu tới bọn học nghề của họ, bắt đầu sao vẽ mấy con ngựa và bò cái của tôi. Và ngày 25 tháng mười, những con thú muôn màu của tôi đong đưa mọi nơi trong thành phố, chúng được thổi phồng bởi cách mạng. Những thợ thuyền vừa tiến bước vừa hát “Quốc tế ca”. Chỉ nhìn họ cười là tôi biết chắc rằng họ đã hiểu tôi.

            Nhưng những người cầm quyền, những người cộng sản thì dường như ít hài lòng hơn.

Tại sao con bò cái lại xanh, và tại sao chú ngựa bay lên trời ?  Tại sao ? Những điều này liên quan gì với Marx và Lénine ? Họ vội vàng tìm đến các người nặn tượng trẻ, đặt làm tượng bán thân của Lénine và của Marx bằng xi-măng. Tôi e rằng chúng đã tan rã dưới làn mưa Witebsk.

            Khốn khổ thay cho thành phố này !

            Khi người ta dựng lên trong vườn hoa công cộng cái tượng nhút nhát ấy, do một học trò trong trường đã làm theo khuôn mẫu, tôi giấu mình sau bụi cây, mỉm cười.

            Marx, ông ấy đang ở đâu?  Đâu rồi cái băng ghế, nơi tôi đã ôm ông ngày xưa ? 

            Tôi có thể ngồi chỗ nào, che giấu ở đâu sự xấu hổ của mình ?

            Thế mà một Marx không đủ. Trong một con đường khác, người ta lại dựng thêm một tượng nữa. Nó cũng chẳng được may mắn hơn. Thô và nặng, càng kém vẻ nhân từ, bức tượng đã làm cho các phu xe ngựa đậu đối diện với nó thêm sợ hãi.

            Tôi thấy xấu hổ. Đấy có phải là do lỗi của tôi ?

 

            Mặc một chiếc áo sơ-mi kiểu Nga, một cái cặp da cắp dưới cánh tay, tôi ra dáng một công chức xô-viết lắm. Chỉ mái tóc dài và, trên đôi má có những vệt hồng bóc ra từ tranh tôi là khiến người ta biết, tôi là một hoạ sĩ. Những ngọn lửa hành chính cháy trong mắt tôi. Tôi bị đám trẻ nhỏ bao quanh - đó là bọn học trò mà tôi đang sửa soạn biến chúng thành thần đồng trong hai mươi bốn giờ. Tôi vất vả chạy vạy đi xin những trợ cấp cần thiết cho trường, kiếm tiền, kiếm màu vẽ và vật liệu. Vận động rất nhiều nơi cho chúng tránh được cái nghĩa vụ quân sự.

            Lúc nào tôi cũng chạy đua. Vợ tôi thay thế khi tôi vắng mặt. Tôi đến cả những phiên họp của Goubispolkom**** để xin ngân quỹ của thành phố. Trong lúc tôi trình bày đề án thì ông chủ tịch chính phủ cố tình ngủ gật. Ông ta chỉ tỉnh dậy khi tôi kết thúc, và bấy giờ ông hỏi :

            “Này, anh nghĩ thế nào, đồng chí Chagall. Điều gì quan trọng hơn cả, sửa chữa khẩn cấp một cây cầu hay là cấp tiền cho cái viện Mỹ Thuật của anh ?”

            Mỗi lần tôi nhận được trợ cấp, với sự giúp đỡ của Lounatcharsky, thì ông chủ tịch này bắt tôi ít nhất phải phục tùng quyền lực. Nếu không, ông doạ bỏ tù. Nhưng tôi chẳng hề chấp nhận.

 

            Thỉnh thoảng, những uỷ viên khác cũng đến gặp tôi. Để thuyết phục mình rằng họ vẫn còn là những đứa trẻ chỉ biết làm ra vẻ quan trọng khi mạnh bạo đập tay xuống bàn trong các buổi họp, tôi đã đùa nghịch vỗ vào lưng hay vào mông một uỷ viên quân sự - gã thiếu niên mười chín tuổi -  hay một uỷ viên công chánh. Mặc dù họ là bọn đàn ông tráng kiện mạnh mẽ, nhất là gã đầu tiên, họ đã nhanh chóng chịu thua. Tôi cũng đã hân hoan ngồi lên lưng ông uỷ viên quân sự ấy. 

            Tất cả các điều này cho ta thấy lòng kính trọng nghệ thuật của lãnh đạo thành phố. Tuy thế, cũng chẳng ngăn cản được chuyện họ bắt giam mẹ vợ của tôi, cùng lúc với tất cả những người trưởng giả khác. Lí do thật đơn giản, chỉ vì họ giàu có.

            Trong các lần bắt buộc đi vận động tôi đã đến nhà Maxime Gorky. Tôi không biết hình ảnh tôi đã phản chiếu như thế nào trong đầu ông. Vừa bước vào cửa, tôi bắt gặp ngay trên tường những bức tranh thiếu thẩm mỹ, đến nỗi tôi tưởng mình đã gõ lầm nhà. Ông đang nằm trong giường và khi thì khạc vào khăn tay, khi vào ống nhổ.  Chẳng cần bàn cãi, ông chấp nhận tất cả các dự án của tôi với vẻ ngạc nhiên; vừa quan sát ông vừa thử đoán xem tôi từ đâu đến và tôi là ai. Còn tôi, tôi quên bẵng là mình đến hỏi xin ông điều gì.     

            Chỉ cần ai đó thốt ra ý muốn là tôi thương hại và mời làm thầy dậy trong trường ngay. Vì tôi muốn mọi khuynh hướng nghệ thuật đều được có mặt. Một trong những người ấy, mà tôi đã cho chức hiệu trưởng, đã dùng thời giờ đi gửi quà cho gia đình. Ở bưu điện và ngay trong uỷ ban những người cộng sản, thiên hạ bắt đầu bàn tán về mấy ông giáo sư được mời của đồng chí Chagall.

            Một thầy giáo kia giải phiền bằng cách ve vãn các uỷ viên thành phố, cố ý nhận ban bố của họ. Lúc các tin tức kiểu này tới tai, tôi rất giận dữ, nóng nảy hỏi :

- Sao có thể thế được ?

Thì anh ta quỷ quyệt trả lời :

- Ồ, đồng chí Chagall, tôi làm thế vì ông đấy !... để giúp đỡ ông.

Thầy giáo thứ ba, sống ngay trong viện và có phụ nữ bao quanh, lại bị xúc động bởi cái thuyết thần bí “trừu tượng”. Tôi chẳng biết hắn đã quyến rũ các bà ra sao.    

            Một người khác, vốn là học trò nhiệt tâm nhất của tôi, từng thề thốt thâm tình và tận tuỵ, cứ tưởng như tôi là cứu tinh của gã. Thế mà ngay khi được chức giáo sư, gã đã ngả sang phe đối lập, chửi mắng và nhạo báng tôi không tiếc lời. Gã liền tôn vinh một thượng đế mới, nhưng chẳng lâu sau cũng phản bội rồi bỏ đi. Còn có một người bạn thân cũ, đã học cùng trường. Tôi gọi anh ta đến giúp. Lúc trước hắn làm việc trong một văn phòng nào đó. Tôi đã nghĩ, để làm gì, hắn chỉ mất thời giờ vô ích ở đấy, nên tôi đem hắn về nhà. Rất sung sướng và để tỏ lòng biết ơn tôi, hắn ta cũng đã vội vã chạy sang phía thù nghịch. 

            Nhiệm vụ chủ tịch bắt tôi phải làm việc rất khuya. Với nhiệt tâm, tôi đã xin các giáo sư làm tròn bổn phận của họ; nhưng họ dần dần mệt mỏi, ngủ gục. Họ xem thường các buổi họp, chế nhạo cả cái trường này và niềm tin vững chắc của tôi. Cũng đúng đấy, tôi chẳng mấy kiên nhẫn. Tôi cho họ phát biểu nhưng biết trước họ sẽ nói gì nên chẳng để họ dứt lời. Tôi muốn thực hiện cùng một lúc nào là viện mỹ thuật, bảo tàng, nào là xưởng vẽ địa phương. Tôi nôn nóng được nhìn thấy tất cả đều thành công, chẳng để ai được quyền nghỉ ngơi, không cho tôi, cũng chẳng cho ai khác.

            Rằng tất cả các giáo sư của trường đều “quý mến” lẫn nhau, và rồi họ sẽ bắt đầu “thương yêu’’ cả tôi nữa. Rằng tôi sẽ trở thành một nhân vật nổi tiếng của thành phố và sẽ cho ra đời hàng chục hoạ sĩ.

 

            Vào một ngày như thường lệ, tôi cất công đi xin cho họ nào bánh mì, nào màu sơn, tiền bạc, thì nhóm thầy dạy trong trường đã dấy loạn, lôi kéo luôn cả học trò của tôi vào cuộc phản kháng.

            Xin Thượng Đế hãy tha lỗi cho họ !

            Với sự ủng hộ của những người mà tôi từng dang tay đón nhận, cho bánh mì và công việc, họ đã lập ra một nghị quyết bắt tôi rời khỏi trường trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.

            Khi tôi đã ra đi, họ tức thì lắng xuống. Còn ai nữa đâu để chống đối. Tẩu tán xong mọi tài sản của viện, cho đến cả các bức tranh mà tôi đã mua về bằng ngân quỹ của nhà nước với ý định thành lập một bảo tàng ở Witebsk, họ đã giải tán, bỏ rơi ngôi trường và đám học trò cho sự may rủi của số mệnh.

 

            Tôi muốn cười được biết bao. Nhắc làm chi những chuyện cũ kỹ ấy ? Tôi sẽ chẳng nói gì thêm nữa về những bạn thân lẫn kẻ thù của mình. Mặt nạ của họ đã hằn sâu trong tim tôi, như những khúc gỗ. Hãy làm sao cho tôi được đi khỏi nơi đây với gia đình trong hai mươi bốn giờ. Hãy gỡ hết những bảng hiệu, bích chương của tôi. Cứ tha hồ nói lắp đi, như ý muốn. Đừng sợ, ta sẽ không nhớ đến các người, cũng chẳng muốn ở lại trong trí nhớ của các người.   

            Nếu trong nhiều năm, ta đã đem hết cả sinh lực phục vụ cho quê hương, bỏ rơi cả công việc của chính mình thì chẳng phải vì tình thương đối với các người, mà vì thành phố của ta, vì cha, mẹ của ta đã yên nghỉ ở đấy.

            Này mấy người kia, hãy để cho ta được yên.

            Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên chút nào nếu sau một thời gian vắng mặt, thành phố này đã xóa hết dấu tích của tôi. Không còn nhớ đến cái người đã bỏ rơi những cây cọ của chính mình, để bị dằn vặt, đau khổ và đã cực nhọc đưa được Nghệ Thuật vào thành phố. Tên ấy đã mơ mộng sẽ biến đổi được những ngôi nhà tầm thường thành viện bảo tàng, và những người dân thô thiển thành nhà sáng tạo.

            Và tôi đã hiểu rằng, không ai có thể là thánh thiên tri cho xứ sở của mình.

            Tôi đã lên đường đi Mạc Tư Khoa.

 

            Tôi đã nghĩ đến bạn bè thân thuộc. Họ có thực là những người bạn thân thiết chăng?         Người bạn thơ ấu đầu tiên mà tôi thương mến đã bỏ rơi tôi như một miếng băng vải bong ra khỏi vết thương. Tại sao ư ? Ngày còn học trong Trường Mỹ Thuật, hắn đã lấy các tranh vẽ trong lớp của tôi, rồi xoá chữ ký và nhận là của mình. Tôi chẳng trách gì, nhưng ban giám đốc đã đuổi hắn ra khỏi cửa. Về sau, trong thời gian tôi ở Paris, hắn đã tự hứa sẽ cướp luôn vị hôn thê của tôi, cố tình quyến rũ nàng bằng cái thứ ân cần giả dối. Cuối cùng, khi nhìn thấy tranh tôi vẽ ở tuổi trưởng thành, và cũng chẳng hiểu được tôi nữa nên hắn đâm ra ganh tị, giống như tất cả những người khác. Tình bạn tuổi thơ như thế đã bay đi, qua ngưỡng cửa đời người đã trưởng thành và ác độc. Đấy có phải đâu là một tình bạn thân thiết, một người bạn thâm tình.

            Tôi có thể kết giao với ai đây ? Có ai để mà thương mến ?

            Những cánh cửa của tôi giờ mở rộng ra như thế.

Linh hồn cũng vậy, cả nụ cười, đôi khi.

Tôi chẳng còn ngạc nhiên nữa khi bị bỏ rơi, bị phản bội. Và tôi không vui mừng nữa khi có người mới đến làm quen. Tôi hồ nghi tất cả. Không có ai là bạn thân. Một người bạn khác đã bỏ tôi. Anh ta chẳng những không còn nghèo nàn mà thực ra lại rất nổi tiếng.

Ấy, nhưng mà thế giới vẫn đầy những bạn. Khi trời tuyết, tôi mở miệng ra hứng. Tuyết đã rơi vào rồi, phải không ? Bạn là thế đó.

Chỉ có Thượng Đế mới giúp cho tôi nhỏ được những giọt lệ chân thật trước tác phẩm của mình. Ở đó sẽ lưu lại các nếp nhăn, sắc mặt nhợt nhạt, ở đó sẽ in giữ muôn đời tâm hồn dễ tuôn chảy của tôi.

 

Thành phố tôi đã chết. Đi khắp các con đường Witebsk.

Tất cả họ hàng đã qua đời.

Tôi sẽ viết đôi dòng cho riêng tôi.

Bạn có thể không đọc chúng. Hãy quay đi.

Các em gái ! Thật là khủng khiếp khi anh chưa xây được mộ cho cha, không cho Rosine và không cả cho David. Hãy viết thư cho anh ngay, chúng ta sẽ nghe thấy nhau. Nếu không, chúng ta sẽ đi tới nước là quên mất cả nơi họ an nghỉ.

Trí nhớ tôi bừng lửa.

Anh đã vẽ về em, David, em với cây măng cầm trong tay. Em cười, miệng hồng, đầy những răng. Anh vẽ em màu xanh trên tranh. Em đã nằm nghỉ ở Crimée, ngoài đất nước, đấy là nơi em đã rất đau đớn vẽ ra từ cửa sổ của bệnh viện. Tim anh đang ở bên cạnh em.

Còn người cha nhỏ bé của con…

Điều trăn trở về những năm tháng cuối cùng của chúng ta đã giằng xé lòng con, và tranh con đã rung lên những hơi thở ấy. 

Cha tôi làm công việc chất hàng lên xe, chỉ kiếm vừa đủ ăn. Một chiếc xe hơi đã đâm vào ông, đè nát và giết chết ông gọn gàng. Thật giản dị. Người ta đã giấu, không cho tôi biết tờ thư báo tử. Tại sao ? Hầu như tôi chẳng còn biết khóc nữa mà. Tôi đã không trở về Witebsk chịu tang cha.

Như thế, tôi đã không nhìn thấy cái chết của mẹ lẫn của cha. Tôi chẳng thể. Tôi đã cảm nhận về cuộc đời này quá nhiều. Phải nhìn thêm “sự thật’ ấy bằng chính mắt mình… mất đi cái ảo mộng cuối cùng… tôi không làm được.

Nhưng có thể nó sẽ có ích cho tôi.

Đáng lẽ tôi phải nhìn, thấy tận mắt từng đường nét người chết của cha mẹ, thấy gương mặt qua đời của mẹ tôi, trắng bệch. Bà đã thương yêu tôi biết bao. Vậy mà tôi ở đâu ? Tại sao tôi chẳng tới ? Thật không tốt chút nào.

Còn khuôn mặt cha, đè nát bởi định mệnh và dưới bánh xe. Đau thay, tôi đã không ở đấy. Nếu tôi có mặt, cha đã hài lòng biết mấy. Nhưng ông cũng chẳng sống lại được nữa.

Con sẽ về thăm mộ bố sau này. Chỉ cách mộ mẹ hai bước. Con sẽ nằm dài bên cạnh. Dù sao thì bố cũng không thể phục sinh. Vậy lúc con đã già (hay có thể trước đó) con sẽ về gần bố.

Thôi Witebsk như thế đã đủ rồi. Chấm dứt con đường của nó.

 

Chỉ có em, em ở lại với ta. Chỉ em thôi, người mà tâm hồn ta sẽ chẳng nói ra một lời phù phiếm. Khi ta nhìn em thật lâu, dường như em chính là tác phẩm của ta vậy. Đã hơn một lần em cứu tranh ta thoát khỏi định mệnh tăm tối. Ta không hiểu nổi con người, cũng chẳng hiểu hơn các hoạ phẩm của mình. Tất cả những gì em nói đều đúng. Hãy hướng dẫn bàn tay ta. Hãy cầm lấy cọ và, như một nhạc trưởng, em hãy đem ta đến những phương trời xa lạ.

Xin cha mẹ đã qua đời ban phép lành cho quan niệm về hội hoạ của chúng ta. Xin cho màu đen càng huyền hơn, và màu trắng sẽ bạch nhiều hơn nữa.

Và đứa con gái bé nhỏ của chúng ta. Con yêu dấu, hãy tha lỗi cho bố đã không nhớ đến con sớm hơn, chỉ vào ngày thứ tư sau khi con ra đời, bố mới đến nhìn con.  

Thật xấu hổ. Tôi đã ao ước có một đứa con trai, nhưng kết quả lại là điều trái ngược.

 ………………………………….

(còn tiếp)

* Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết Nga 

** Hội đồng các ủy viên nhân dân.

*** Văn phòng của uỷ viên nhân dân về giáo dục.

**** Ban điều hành của chính phủ.