AoHoaSuongNui

Mai Ninh

 

Áo hoa Sương núi

 

Mười năm trước tôi đến vùng tây bắc này, cũng một mùa đông. Trời rét buốt nhưng nắng chan hoà trên con đường từ nhà ga xe lửa lên núi. Mười năm nghĩ cho cùng chẳng mấy xa, nhưng lại thấy sao dạo ấy ḿnh và bạn thơ trẻ không ngờ. Cả bọn hăm hở, ngồi sau xe ôm leo dốc trong khí lạnh căm căm, cười đùa không dứt. Bây giờ, sương mù che khuất núi non, bờ ruộng, thác suối. Sương cũng làm chùng nặng thêm cái mệt sau một đêm tàu hỏa ren rét nghiến đường rầy, không thể nào thiếp ngủ. Ước mơ ánh trời sớm hửng lên, xem núi có già hơn theo người đă mỏi. Chỉ mong bắt gặp một người Dao hay Tày từ thung lũng đi lên với chiếc cần tre lủng lẳng dăm con cá suối. Chẳng cần chi nhiều, chục con cá nhỏ nhoi ngọt ngào đă đủ để nhắm với cốc rượu San Nùng đắng nồng hương thuốc bắc, cho qua rét cắt ngày đông.      

Chiếc xe hơi rồi cũng ḅ lên tới con đường chính của thị trấn. Tôi hạ kính, ngó t́m căn nhà có lan can màu xanh là nơi đă ở đó mấy đêm cuối năm xưa. Nhưng chẳng thấy dấu tích ǵ, ngay cả hiệu ăn thấp chũm mà sáu người chúng tôi đă vào đó nếm cá suối nướng. Chủ quán đẩy bản nhạc “Trường Sơn đông Trường Sơn tây” chạy suốt từ đầu đến hết bữa. Chợt ngạc nhiên nhận ra ḿnh đang lóng ngóng đi t́m dấu vết kỷ niệm chứ chẳng ngắm nh́n những người dân tộc trong áo quần màu sắc, vốn là cái quyến rũ nhất với khách phương xa. Họ lăng quăng từ vỉa hè này sang vỉa hè kia, chập chờn bao quanh du khách. Các màu áo sặc sỡ chỉ được thắp sáng lên trong lớp sương dầy khi có đèn pha xe hơi chạy qua. Con đường dường như đă được mở rộng, xe cộ ngược xuôi bấm c̣i ồn ả. Các quán ăn chen nhau hai bên bờ lề trơn trượt đẫm sương. Mới năm nào con phố c̣n thưa thớt dăm tiệm cà phê và cơm b́nh dân. Bây giờ phần đông mang những cái tên ngoại quốc rất kêu, Anh Pháp đủ cả. Bảng hiệu huỳnh quang màu mè nhấp nháy, thực đơn với các thức ăn tây phương dựng treo cùng khắp.

Bỗng mắt dán vào một bà già người Dao đeo khuyên bạc to gần bằng nửa khuôn mặt hóp heo, kéo hai dái tai trĩu xuống cằm, đứng ngay lề đường. Xe dạt qua, sát ô kính. Ánh mắt đậm và cái nhíu mày kia rất cá biệt và chẳng thể không nhận ra. Muốn mở cửa, nhảy xuống xe để hỏi có phải bà ấy đă có mặt trong nhóm ca hát đêm nào, và c̣n nhớ một phụ nữ người Kinh nhỏ nhắn, hay cười, đă qua đây mười năm trước. Bà c̣n nhớ S. chăng? S. đă hồn nhiên đưa cả đám đàn bà Dao Tày Ráy chân trần trên mặt đất cứng buốt cái lạnh ba độ trong chiều mùa đông năm ấy, vào chợ mua cho họ tất cả mười lăm đôi dép, giục mang ngay vào chân. S. c̣n muốn mua cả giầy lẫn vớ nhưng bà bán hàng ngăn lại. Vậy mà chỉ hơn mười phút, sau khi S. đă trở lên căn pḥng nhà trọ th́ từ ban công tôi nh́n xuống, đoàn phụ nữ đang hí hửng lon ton chân đất cầm dép trong tay, chạy trở vào chợ, bán lại cho chủ sạp giầy. S. chẳng thể nào ngờ, những con người ấy sợ đói hơn sợ lạnh, chỉ cần tiền, gạo và cá. Họ không quen mang giầy dép, dù mỗi ngày cuốc bộ bao cây số từ bản xa đến đây, trên mặt đường băng giá.     

Mười năm sau, người đàn bà vẫn thế, quả táo vốn sẵn cằn teo quá đỗi nên chẳng thể quắt queo hơn. Không ngờ vừa xuống xe, đă thấy bà ta chờ ở cửa quán ăn, rủ tối nay ra công viên nghe bà hát, khoe rằng ḿnh có thể ca cả cải lương. Bạn tôi nói sẽ ra chợ, tối nay là phiên Chợ T́nh. Bà chu môi, giơ ngón tay xua xua :

-         Hết chợ, hết t́nh rồi, dỏm đó. No good, sir.

Rồi tự động gỡ chiếc kiềng lủng lẳng mấy quả chuông đeo vào cổ tôi, khen đẹp rối rít. Tôi cười tháo ra, trả lại. Bà bảo ngay :

-         Lấy rẻ mà, mười đô thôi, madam.

Tôi phải lắc đầu mấy lần, bà mới chịu bỏ đi, tóm ngay một người khách khác. Nh́n ra xa, chẳng thấy được bóng núi, tôi thoắt gọi thầm : S. ơi, người đàn bà S. từng đi bên cạnh, nói chuyện hỏi thăm và lắng nghe giọng hát ngọt ngào, người mà S. dịu dàng thương cảm suốt mấy ngày đông dạo ấy đă như con phố này, không c̣n dấu tích ǵ của bao năm trước.

 

Khách sạn bây giờ mọc túa hai bên đường, đủ hạng đủ sao, người ra người vào. Nhóm này đôi người ngồi chờ xe xuống núi. Đám kia vừa đổ bộ, ồn ào hành lư, đợi phiếu ăn sáng. Chẳng như ngày xưa, ngoài một khách sạn năm sao đồ sộ trên triền đồi có xe riêng đưa rước, chỉ có vài pḥng trọ đơn sơ. Bọn du- khách- xe- ôm chúng tôi đành trú lại trong hai căn pḥng trên lầu một ngôi nhà nhỏ hẹp. Vợ chồng chủ nhà cam đoan sẽ có ḷ sưởi và chăn ấm ban đêm. Nhưng đến tối, muối sương đọng mờ khung cửa kính nhỏ xíu, người vợ đem lên mỗi pḥng một bếp ḷ ba chân bằng đất nung, có vài cục than cháy đỏ. Chưa kịp hỏi làm sao đủ sưởi qua đêm th́ cô ta đă biến mất dưới chân cầu thang. Suốt tối cũng chẳng thấy họ đâu. Chợ T́nh không họp, chúng tôi theo S. ra công viên nghe hát. Trở về, S. lạnh cóng chân tay. Lục lọi dưới lầu t́m được chỗ chủ nhà cất than, vội vàng đem lên bỏ vào mớ tro c̣n âm ỉ, lại kéo bếp để dưới gầm giường cho thêm ấm. Suốt đêm khí lạnh len qua khe cửa hở, tôi chập chờn co chân, rụt cổ, cố thu ḿnh nằm gọn trong tấm chăn ngắn ngủn. May thay, cũng nhờ khe cửa ấy mà người mong manh như S. đă không chết ngạt v́ khói than. Trời chưa kịp sáng, tôi nghe tiếng S. rên mơ hồ. Chóng mặt, khó thở, cố ngồi dậy tôi hoảng hốt thấy S. lả trên giường. Thế mà khi nắng lên S. đă tỉnh, lại leo đồi xuống bản. Bước theo những tấm váy rực màu lay động trong nắng tươi vừa tách màn sương xám. Chúng tôi cùng họ về nhà, xem đàn ông chạm kiềng căng trống, phụ nữ dệt vải thêu khăn, đan mây trên thềm. Họ vừa làm việc vừa cười đùa cḥng ghẹo nhau, cả cho con bú. Nhịp sống chậm răi, yên ả giữa núi rừng. Bây giờ khác hẳn, tôi không t́m ra một hàng hiên có người ngồi nhuộm chỉ, thêu may như mười năm xưa, dù đă đi qua vài thôn bản.

Tôi đă vậy, bạn ở xa đến VN lần đầu càng thắc mắc hơn. Câu hỏi đă được trả lời khi chúng tôi đến thăm một gia đ́nh vốn cố cựu ở phố núi này. Nghe đâu chủ nhân tham gia vào việc tổ chức, phát triển văn hoá du lịch địa phương. Ông hănh diện gật gù khi tôi bảo khuôn mặt, đời sống nơi đây đă thay đổi đến chóng mặt. Miệng nhếch cười, ngước mắt về các người bạn của tôi, ông khoe khách tham quan tăng vùn vụt, nhất là ngoại quốc. Một trong mấy bạn ấy hỏi :

-              Nếu muốn xem người dân tộc hành nghề thủ công mỹ nghệ th́ đến đâu, cả ngày chúng tôi đă đi sâu vào nhiều làng xóm nhưng không thấy? Sao hiếm vậy ?

Chủ nhà cho biết ngày nay đă khác, địa phương đă dựng được vài cơ sở sản xuất các thứ hàng ấy rồi và đang nghiên cứu phương án thành lập những cửa hàng qui mô, một loại hợp tác xă vừa trưng bày sản phẩm, ngành nghề, vừa bán luôn cho khách những món hàng mà chất lượng được bảo đảm. Ông lại nh́n bạn tôi, nháy mắt :

-         Như thế, có phải dễ chịu hơn không ? Quí vị sẽ không bị đám đàn bà con nít kia đi theo nài nỉ mua cái này cái kia. Nhất là chúng tôi sẽ kén chọn, gom về đó những người dệt đẹp, khảm khéo để biểu diễn tại chỗ, khỏi phải lùng lội vào các bản xa. Tiện quá đi chứ !”

Trong khi ông tiếp tục rung đùi và các bạn ḿnh đưa mắt ngó nhau chẳng biết nói ǵ, th́ tôi nhớ lại mấy cửa tiệm to lớn, rộng có khi gần ngàn thước vuông, một thứ siêu thị triển lăm đầy đủ các đồ mỹ nghệ thủ công mà trên đường tham quan bác tài đă dừng xe lại, kêu vào xem. Ở đó, chúng tôi đứng nh́n những người thợ đẽo đá, nặn tượng. Ở đó khách tha hồ ngắm các cô thiếu nữ áo dài tha thướt, ngồi xếp hàng yên lặng thêu lụa, không khác ǵ một bức tranh. Ở đó khách được mời uống cốc trà xanh cùng với những lời mời mọc mua hàng hấp dẫn. Dĩ nhiên, như thế có hơn, rất tiện,         như ông ta nói. Nhưng sao chỉ vài giây thôi, tôi lại tiếc ngẩn ngơ h́nh ảnh mấy cô gái năm nào vừa ṛn ră kháo chuyện với chúng tôi vừa thoăn thoắt vuốt kéo những sợi chỉ màu. Ghép được một viền thêu đầy hoa văn lên thân áo là đứng dậy ướm ngay lên ngực, quay một ṿng, cười toe hỏi người chung quanh rằng có đẹp hay không?

Ừ, cô người Dao ơi, quá đẹp, để cô mặc ngày cưới chồng hay sao? Chồng sẽ đem về lễ cưới mấy con trâu? Mà hôm nay, cô đang dệt manh thổ cẩm nơi nào, t́m hoài chẳng thấy?

Cũng trên một sườn đồi nắng trưa vừa xoá tan sương núi, cây rừng chung quanh trổ những bông hoa ǵ từng chùm trắng óng ánh trời. Chúng tôi đang hỏi nhau có biết tên hoa, th́ chợt vọng sau lưng giọng hát trong veo tươi tắn chen lẫn tiếng chim. S. quay ngay người, trố mắt : Nh́n ḱa, xinh không! 

 Từ sau tảng đá, một cô gái dân tộc gùi đứa bé nhỏ xíu sau lưng vừa đi vừa hát. Thực ra cô không đi mà đang nhảy chân sáo giữa các bụi hoa tụm cỏ. Khi lại gần, mặt cô trắng hồng sáng rỡ, hai vành môi hồng ngậm một chiếc lá non xanh. Cô ngừng lại, giương mắt ngó chúng tôi nhưng không nói ǵ. Đứa nhỏ đội mũ vải đỏ tṛn xoe có gắn lục lạc. Nó mở hai ḷng mắt nhăn huyền ngơ ngác. Cô gái c̣n rất trẻ và cũng có màu mắt trong vắt như thế. Chúng tôi cùng chào, tôi hỏi :

-         Em ở xa không ?

Cô ta lắc đầu không nói, nhưng đưa tay chỉ xuống chân núi thấp thoáng một vài nóc nhà sàn.

-         Ở tuốt dưới ấy ? Xa thế mà cơng em lên tận đây dạo chơi à ?

Đứa trẻ xem chừng chẳng thích đứng yên, cất tiếng o oe. Nhưng cô gái không dỗ nó, cúi xuống nhặt viên đá vẽ những ô vuông ngang dọc, rồi nhảy ḷ c̣ ô này qua ô nọ. Bé con lắc lư theo, nín khóc.

     Đột nhiên cô ngừng, quay nh́n chúng tôi, mở miệng, cánh lá giữa môi hờ hững rơi bám trên ngực áo. Tiếng Kinh hơi ngọng :

-         Không phải em đâu, con đấy !

Cả bọn chẳng đừng được, thốt kêu :

-            Úi trời, em mấy tuổi đă có con ?

-            Mười bốn.

-            Sao cưới chồng sớm thế ?

Cô nhỏ b́nh thản đáp :

-            Tại nó đem cho bố mẹ con tâu.

-            Nó ? Chồng em ?

-            Ừ, nó.

-            Thế em có đi học không ?

Lần này chẳng trả lời ngay, cô cúi người ngắt một chiếc lá khác, định cho vào miệng, nhưng nghĩ sao lại thôi, ngoái cổ ngó đứa bé, mặt trầm hẳn xuống :

-            Bây giờ không được học nữa. Cho tâu ăn và đưa nó đi chơi.

Một người trong bọn buột miệng :

-            Thế lấy chồng có thích không ?

Mấy người đàn bà chúng tôi chưa kịp lườm anh ta th́ cô gái đă đáp tỉnh bơ :

-            Nó về nhà là ngủ. Nó khóc nhè, cũng ngủ. Nó không cho tiền.

Phải vài giây chúng tôi mới hiểu rằng từ chồng tới con, ai cô cũng gọi là ‘‘nó’’ cả.   

-            Thế em muốn nó đưa tiền để làm ǵ ?

Và cả bọn ngạc nhiên khi người mẹ mười bốn tuổi, gương mặt mịn màng sáng nét thơ ngây đáp ngay :

-            Tậu tâu. Tậu tâu trả lại nó, rồi đi học.

Anh bạn bật cười :

-            Tuyệt vời, con trâu ! Cái giá của tự do.

Gom một số tiền trong túi, chúng tôi đưa cho cô bảo mua sữa cho con. Cô cuốn tṛn lại, đút vào giữa ngực áo, rồi chẳng nói thêm câu ǵ, cô xốc gùi cất bước. Chúng tôi chào với theo, cô gái chẳng quay lại, tiếp tục co một chân rồi chụm hai chân nhảy ḷ c̣. Cái đầu tṛn đội mũ hoa của đứa bé như quả bóng đỏ tưng tưng dưới nắng trời trong suốt.

 

      Sau mấy tháng hè cằn khô bỏng lửa, mùa rét năm nay tràn từ bắc xuống căn cắt thịt da. Nó khiến con trâu đột nhiên có chỗ đứng trong thông tin báo chí hằng ngày. Tuy người ta ít nói về số người qua đời v́ đói lạnh hơn là về số trâu ḅ đă chết cóng, nhưng các tường thuật và h́nh ảnh những đứa trẻ trên miền sương núi tôi từng đi qua cho thấy chúng phải gồng ḿnh thế nào trong giá rét, đă khiến ḷng người tái buốt hơn. Như một A Sính, mong manh trong chiếc áo vải đứt nút không thể cài kín cổ, treo ḿnh ngang sườn đồi để hái lá về cho con vật quí giá nhất của gia đ́nh được đầy bụng. Có mỗi tấm chăn cũng phải hi sinh đem đắp cho trâu, bằng không nó sẽ chết. Và không thiếu các em nhỏ khác ở bản này thôn nọ đầu trần, áo quần đơn sơ, nhọc nhằn bụng rỗng tê cóng tay chân, phải đường xa đi xin trấu về giữ ấm cho con trâu đang nằm trong chuồng. Ai đó bảo rằng lắm khi súc vật c̣n sướng hơn người.         

           Sa mù, màu áo màu hoa và thiên nhiên hư ảo bồng bềnh mây khói liệu đủ quyến dụ, để khách đă qua đây quên bớt những bận ḷng ? Để mỉm môi cười khi nhớ lại giọng hát và những bước chân sáo lăng quăng trẻ nhỏ của cô gái gùi con năm nào. Nhưng cô có thật hồn nhiên thế không, chẳng phải ḷng cô vẫn canh cánh nỗi niềm về một con trâu giá mà có được đấy sao ?    

(Tháng chạp Canh Dần)