Chương 2.
NGHE MƯA
Dĩ nhiên bé Ti trả lời chẳng ngần ngại là muốn tổ chức sinh nhật trên du thuyền. Nên ngoài bữa tiệc ở nhà cho bạn bè cả lớp, đám trẻ con của ba gia đình được cùng bố mẹ đi chơi trên đại dương với danh nghĩa mừng bé Ti lên tám. Ba ông bố từ thời trai trẻ đã tự xưng ba chàng ngự lâm pháo thủ dù chẳng bao giờ biết cây kiếm dài ngắn ra sao. Họ tụ họp mỗi cuối tuần, lúc thì trên du thuyền của Tuấn-Thúy, lúc trong vườn hoa trái bao la của Cường-Hiền, lúc trên nhà sàn giữa rừng cây bạt ngàn của Dương-Cúc. Thành đạt và hài lòng với cuộc sống, họ rủ nhau cùng từ giã phố phường nhộn nhịp, tạo việc làm trên hòn đảo xinh đẹp hiền lành này với hy vọng sẽ sống yên lành đến cuối đời và thương mến nhau mãi mãi.
Trên biển sáng êm đềm, tiếng cười của nhóm bạn sáu người rộn ràng trẻ trung mang niềm vui cho cả vùng chài. Họ chào mấy ngư phủ trở về từ chuyến lưới hai, hỏi thăm số thu hoạch, nói chuyện nắng mưa thời tiết. Một người mang đến cho Thúy giỏ tôm sú còn nhảy. Bé Ti chạy đến giằng xuống xem, liếng thoắng:
- Sao bác biết sinh nhật cháu hôm nay mà cho?
- A… Ô… bác nghe mẹ nói. Chúc mừng sinh nhật cháu. Cháu phải ngoan và học giỏi nghe!
Ti thoắt chạy đi khoe với các bạn. Người lớn nháy mắt nhau cười. Thúy kín đáo dúi tiền cho ngư phủ, ông ta giẫy nẩy:
- Không đâu, đành là chị đặt, nhưng chẳng mấy dịp tình cờ gặp sinh nhật cháu.
Ép thế nào cũng không xong, bà con cám ơn và Hiền nhìn vào giỏ hân hoan:
- Ngon phải biết đây. Đáng lẽ mình phải ra khơi mỗi ngày mới phải. Cũng thì tôm cá tươi mà ăn giữa biển nó vẫn ngọt hơn ở nhà.
- Thì ai cấm bà ra biển mỗi ngày. Hay kêu ông Cường đi làm dân chài cho khỏe.
Cúc vừa cười nói và thoắt cái đã xách giỏ tôm bước lên thuyền, biến xuống hầm tàu. Nhóm đàn ông kẻ lên trước đón đàn bà con nít, kẻ còn đứng dưới giúp họ lên. Thúy nhanh nhẹn bước lên thì Hiền gọi giật:
- Ê bà bà, bầu bì phải đi đứng nhỏ nhẹ nghe bà, làm gì như lính Lê dương vậy.
Thúy quay lại lườm bạn:
- Hồi con Ti đã bị nằm dài chán lắm rồi, lần ni tui khỏe như voi mà bắt đi nhỏ nhẹ như đào hát bội thì chết cho khoẻ!
- Cái miệng ăn mắm ăn muối nói bậy như quỷ chưa!
Cuối cùng ba ông chồng lên tàu, Cường hỏi:
- Bữa nay ra đảo bắt hào hả? Thi với tụi bây, tao thắng hoài cũng kỳ, mà chẳng lẽ ôm chai Bordeaux một mình cũng buồn.
Và thuyền ra khơi. Giữa trời biển bao la, chiếc du thuyền chẳng khác chiếc lá mỏng manh yếu đuối trôi nổi dập dềnh theo con nước. Gọi là du thuyền cho sang, và bởi vì nó không dùng cho kế sinh nhai mà chỉ đi chơi, chớ là chiếc tàu đánh cá Tuấn cùng các bạn tân trang lại, thêm dụng cụ cho việc bếp núc tiện nghi và làm đẹp nên không còn vẻ là tàu đánh cá nữa. Dưới ánh nắng dịu ban mai, người ta uống khai vị, ăn trái cây, Dương ôm đàn ghi ta vừa đàn vừa hát, tiếng hát vui nhộn khiến các bà như thông lệ, hăng hái hát theo, vang vang trên mặt biển ban mai êm ả. Thúy hát rất hay, giọng trầm ấm, thường Dương đệm đàn rất ăn ý. Cả bọn cứ đùa khi nào túng tiền bắt Dương và Thúy hát dạo xin tiền. Trẻ nhỏ đuổi nhau chạy từ dưới lên sàn tàu rồi chạy xuống, tiếng cười nói líu lo.
Tới đảo, cánh đàn ông lặn bắt hào, cánh đàn bà đứng trên thuyền hăng hái đả đảo Dương là người luôn luôn thua trong những cuộc thi sử dụng tay chân. Hào tươi, trong veo bọng nước, vắt vài giọt chanh rồi cạo gỡ ra, húp cái soạt. Cúc lăng xăng phục vụ nướng bánh mì, hỏi vọng lên có ai cần gì nữa không. Chẳng ai trả lời, Cúc gắt:
- Nè cái đám mê ăn, có ai cần gì không thì bảo, tôi mà lên rồi là không xuống nữa đâu.
Cả bọn cười ra dấu cho nhau đừng trả lời. Một lát Cúc bưng khay lên có đủ thứ, vừa nguýt các bạn vừa mắng:
- Có ăn thì bị chửi cũng chẳng nghe.
Sau bữa ăn trưa với sự tiếp sức của rượu nho, nhóm đàn ông bắt đầu thiu thiu trong cơn gió nhẹ. Nhóm đàn bà trông chừng con nhỏ vì bảo thế nào chúng cũng không chịu ngủ trưa. Cúc bồng con trai cùng nhoài người nhìn mũi tàu xẻ nước, gió nhẹ không đủ làm bay tóc. Cúc gọi:
- Ê bà Thúy, đứng ở mũi thuyền mà sao không có gió cho mẹ con tui bay giống bà với ông Tuấn bắt chước phim gì đó.
- Cảnh mùi mẫn giữa bồ bịch chớ phải mẹ con mô mà bà làm với thằng Hải được. Với lại bà không có kiếm, phải có kiếm vua ban mới xẻ gió mà bay được tề.
Thúy quay phim cảnh mẹ con Cúc ở mũi tàu, cánh đàn ông ngủ dưới nắng, Hiền bôi dầu dưỡng da và trẻ nhỏ chơi xếp hình. Một đứa gọi:
- Hải, tới chơi!
Chú bé vuột khỏi tay mẹ chạy đến các bạn, mái tóc dài chấm gáy phất phơ trên khuôn mặt xinh xắn màu da nâu đỏ mạnh khỏe. Cúc không thể bầu bì nữa nên hai vợ chồng dồn hết tình yêu vào đứa con duy nhất, nghĩ nó sẽ thành kiến trúc sư vì nhặt được mẩu gỗ nhỏ nào cu Hải cũng nghĩ cách chế biến được một cái gì đó, dù vụng về nhưng sáng ý. Không những chỉ xây lâu đài cát, nó thường nhặt vỏ sò trang trí từng phòng bên trong và đặt vỏ sò to nhất gọi bể bơi. Nó thường lãnh đạo các trò chơi cho cả nhóm. Hai trai hai gái. Hải và Ti quấn quýt nhau nhất, cu Hải nói lớn lên sẽ cưới Ti làm vợ. Khi hỏi vợ là gì, chúng luôn trả lời là bạn. Chỉ có thằng Trung đòi lớn lên sẽ cưới mẹ. Cả bọn đã từng cười thằng này có máu Oedipe, Hiền bảo như vậy chứng tỏ mình là người đàn bà lý tưởng nhất, vừa lòng cả bố lẫn con.
Thúy quay phim đám trẻ con, bảo:
- Cu Hải nói lớn lên sẽ cưới Ti phải không. Rứa hôn Ti cái coi.
Hai tay cu Hải ôm đầu Ti kéo về phía mình hôn lên má con bé. Ti cau có quẹt nhanh chỗ má vừa bị hôn ươn ướt.
- Ti không cưới cu Hải đâu, Ti cưới hoàng tử thôi.
- Hoàng tử nào?
- Hoàng tử thủy cung.
- Ở đâu?
- Ở bên Đức.
Đám đàn ông đã thức vì tiếng lao nhao trẻ con, nổi lên cười, hiểu là Ti vẫn chưa phân biệt cặp vợ chồng bạn bên Đức tên Cung và Thủy, với hoàng tử thủy cung. Tuấn bảo:
- Mẹ Thúy đã hứa hôn cho Ti ngay từ khi Ti còn trong bụng đấy, từ khi chưa ra đảo kia, cu Hải không địch lại hoàng tử thủy cung đâu.
- Vậy con sẽ cưới ai ?
- Để chú coi, à, nếu cô Thúy sinh con gái nữa thì chú sẽ gả cho cu Hải nghe.
- Con không thèm đâu, con cưới con Ti thôi.
- Ừ thì tùy, nếu thắng nổi hoàng tử. À, còn em Trinh, Hải không muốn cưới em Trinh sao?
Hải nhìn Trinh, nó nắm tóc con bé giật ngược khiến con bé ré lên vội chạy đến mẹ. Hải lắc đầu:
- Con không thèm con Trinh, nó hay khóc lắm.
Bé Trung cáu, lườm Hải:
- Hải nắm tóc nó kéo đau thì nó khóc chớ sao.
Mỗi lần đi chơi, ống kính Thúy giữ hết được cảnh vui tươi của nhóm bạn thân nhau từ thời trung học. Thỉnh thoảng lại cùng xem cười rổn rảng, nhắc lại từng kỷ niệm từ thuở nào mà vẫn sôi nổi như hôm qua. Và tình bạn của họ gắn bó như không có gì suy suyển được.
Buổi chiều khi mặt trời bắt đầu áp xuống chạm mặt nước, chiếc du thuyền đã về gần bãi đậu. Các bà lại lao xao thu vén đồ đạc, nhắc con đừng quên sách vở, đồ chơi. Đám trẻ lau nhau hẹn ngày mai gặp ở trường và chưa chi đã hẹn gặp nhau vào cuối tuần tới.
Khi tàu vào cảng, thủy triều đã dâng lên cao, hải âu kêu nhau lạc giọng. Chúng lượn lờ trên bờ kè, màu xám đôi cánh hòa lẫn vào màn đêm sắp xuống và tiếng kêu có lúc ai oán, chói tai. Bỗng Thúy khều tay chồng:
- Tự nhiên em thấy buồn buồn răng răng.
- Buồn gì? Buồn nôn nữa hả?
- Không mô, buồn buồn thôi.
- Ừ, chắc tại em luôn luôn ghét khoảng giờ này mà. Với lại chắc em cũng mệt, về nhà nghỉ ngơi sẽ hết.
Tuấn an ủi và choàng tay ôm vai vợ hôn lên trán, xong nhảy lên bờ kè bắt sợi thừng Cường ném vào. Cột thuyền xong, Tuấn bảo:
- Rồi, các bà từ từ lên đi.
Câu nói đó hình như không thay đổi dù Tuấn, Cường hay Dương là người nhảy lên bờ trước phụ trách việc cột tàu. Dương bước lên bờ kè, đón trẻ nhỏ từ tay các bà. Khi Cúc bồng cu Hải đưa lên, vừa lúc con tàu tròng trành. Cúc hoảng hốt lùi lại, cười:
- Hú vía chưa. Có sóng đấy.
Ngưng một lát chờ con sóng đi ra, Cúc đưa con lần nữa. Khi Dương vừa chạm vào cu Hải thì lạ quá, chiếc thuyền tạt xa khỏi bờ kè một khoảng rộng vừa đủ để điều quái dị xảy ra: cột nước cao đùn lên và Cúc rú thất thanh khi con vuột khỏi tay mình mà chồng chưa ôm nó hẳn. Mọi người kêu nhau ơi ới và ba người đàn ông nhanh nhẩu ào xuống nước…
Buổi tối trên biển bỗng rộn ràng. Đàn bà xóm chài đứng thành dãy dài cầm đuốc phụ với ánh hải đăng và cánh đàn ông không biết bao nhiêu người đang mò tìm dưới nước, cả dân chài và dân lặn chuyên nghiệp. Cúc bơi tìm mãi đến lúc lả người chới với được dân chài kéo lên, ngồi bệt trên cát mắt mở thao láo không nói năng gì, không cả khóc, chỉ là cái xác. Ánh đèn chập chờn trên nét mặt vô hồn của Cúc lúc ẩn lúc hiện. Thúy ngồi bên cạnh ngơ ngác và sau lưng hai người, Hiền cũng ngồi như tượng, thỉnh thoảng bóp nhẹ vai Thúy nói nhỏ:
- Bà về nghỉ đi, coi chừng bị ảnh hưởng không hay cho cái thai. Có gì thì tui báo.
Thúy lắc đầu, kiên nhẫn chịu cái mệt mỏi bầu bì chẳng thấm vào đâu với nỗi lo sợ của bạn. Bầu trời thăm thẳm, sao chớp mắt tự tình mãi trên cao khiến biển u ẩn đen ngòm huyền bí. Tiếng sóng nhè nhẹ rì rào bình thường thơ mộng mà giờ phút đau buồn này chẳng khác tiếng rì rầm ma quỷ. Gió thoang thoảng mùi đại dương bình thường nồng nàn tình biển mà giờ khắc này mang hương đắng tử thần. Nhóm đàn bà dân chài đông đảo ồn ào là thế mà giờ phút này lặng lẽ như những hồn ma nét mặt chờ phán xét. Mặt nước loang loáng ánh đuốc mờ mờ ảo ảo, bên dưới chắc tối đen mù mịt. Người lớn nếu bơi giỏi cũng đã không thể nào trồi lên nữa rồi, một thằng bé tám tuổi thì làm sao. Nó ở dưới đó, một mình, chới với trong bao lâu rồi mới xuôi tay?
Yên tĩnh đáng ngờ. Mặt nước mênh mông sững lại, lạnh lùng dửng dưng trước đám người quằn quại ruột gan. Nhìn từ bãi ra chỉ thấy một màu đen, vài điểm sáng nhấp nhô. Nhìn từ ngoài vào thấy ánh đuốc sững sờ trên nét mặt nhóm người câm nín oan hồn.
Cuối cùng Thúy cũng nghe lời Hiền hối thúc dẫn trẻ nhỏ về nhà mình cho chúng tắm táp nghỉ ngơi. Chỉ có thằng Trung hiểu được mối nguy hiểm đe dọa bạn mình, bé Ti và Trinh vẫn thản nhiên, Ti còn nói:
- Cu Hải hư vậy đó mà đòi cưới con!
Ngoài bãi đêm đã về khuya, thỉnh thoảng có người nhô lên mặt nước, đám đàn bà nhốn nháo hớn hở chạy tới đón, nhưng không có gì trên tay người bước vào bờ, anh ta thở phào nằm vật trên bãi. Từ từ, nhóm đàn ông đã trở về, kể cả nhóm Tuấn, còn dưới mênh mông sâu thẳm nhóm lặn tìm chuyên nghiệp. Họ tụ tập hết trên bãi, kẻ nằm người ngồi, mệt mỏi, thất vọng, ngơ ngác như đám ma Hời. Hơi thở biển đêm dính vào da rin rít lành lạnh khiến nhiều người co ro. Một cây đuốc phụt tắt. Bấy giờ mới nghe tiếng nấc giữa đám đàn bà với tiếng gọi thảng thốt sau cơn mê “Con ơi, cu Hải ơi!”. Và đó là tiếng dạo đầu cho khúc nhạc buồn, nhiều tiếng nấc nổi lên theo gió tan loãng trôi lững lờ trên mặt nước…
X
Cụ bà ngưng kể. Mọi người im lặng, không bảo nhau cùng mặc niệm. Cụ nấc khẽ, nước mắt lăn dài xuống đôi má nhiều nếp gãy. Nhóm người làm phim cúi đầu tránh nhìn bà cụ, một luồng điện băng qua, cô phóng viên mắt đỏ hoe bóp chặt bàn tay nhăn nheo, lau nước mắt cho cụ. Cụ ông thì cứ lắc đầu không nói gì. Giây phút im lặng này như có đôi mắt nhìn thấy xác thằng bé dập dềnh đâu đó trong lòng biển đen ngòm.
Rồi cụ bà mỉm cười méo mó nhìn mọi người:
– Mời anh chị dùng bánh uống trà. Của cháu đem ra từ lục địa, hôm lễ kim cương. (Cười cười) Con cháu bày đặt quá đó mà, kim cương với hột xoàn!
Nhóm làm phim mau mắn rót trà mời hai cụ, như thể muốn cắt đứt cái gì nghèn nghẹn ở cổ. Họ ăn uống nhỏ nhẹ chờ đợi, không dám đường đột hối hả nghe tiếp câu chuyện bắt đầu gay cấn. Rồi mọi cử động đều ngưng khi bà cụ lướt tay lên quyển album:
– Tất cả những hình ảnh này là nhờ bà Thúy đây. Mỗi chuyến họp nhau bà ấy lúc nào cũng máy quay phim máy hình trên tay. Máy móc tiến nhanh quá, dạo đó còn kình càng, đâu có nhẹ nhàng tối tân như bây giờ. Tội quá, cứ nói phải ghi lại kỷ niệm tụi mình. Lần nào cũng lịch kịch tay xách nách mang.
Rồi giọng cụ trầm xuống, mắt mơ màng, tay từ từ lật từng trang:
– Nhưng không có tấm hình nào của đêm chờ tìm xác cu Hải. Cũng không có tấm hình nào của bà Cúc lúc tìm thấy xác con hay khi nằm trong lều bên cạnh nấm mồ đắp vội… Là tôi nói vậy chớ ai lòng dạ nào mà chụp, nghĩa là nói chung, không có tấm hình hay đoạn phim nào từ đó trở đi. Anh chị thấy đó, toàn những hình ảnh vui vẻ không thôi.
Một anh hưởng ứng:
– Thưa cụ, vậy cũng hay, lúc nào cũng thấy niềm vui ạ.
– Nhưng mà khổ, từ đó trở đi thì rất ít chuyện vui. Cái xác cu Hải đè bẹp chúng tôi.
Giọng cô phóng viên rụt rè:
– Thưa cụ, bao lâu sau mới tìm thấy xác?
- Hai ngày sau chị ạ. (Lắc đầu, chép miệng) Anh chị không biết trong hai ngày đó chúng tôi sống ra sao đâu. Tất cả bỏ hết công việc, dồn hết vào nhà Cúc Dương, lúc nào cũng có người canh bên cạnh không dám rời ổng bả một bước.
– Thưa cụ rồi… cái xác…
– A, cái xác… trời ơi cái xác thằng bé…
Bà cụ nghẹn. Cô phóng viên vội ôm vai bà. Tất cả lại lặng yên. Không ai dám động đến cái xác nữa. Chợt một cánh cửa sổ đánh sầm khiến mọi người giật mình, nhìn. Chị người làm bươn bả từ bếp lên móc lại, cằn nhằn có gió đâu mà sập mạnh vầy nè. Ông cụ e hèm chiêu hụm trà tiếp lời:
– À, ờ, cái xác, cái xác đã khiến cho dân đảo vốn mê tín dị đoan thêm lo sợ...
– Thưa, chẳng lẽ ở đảo chưa từng có chết trôi?
– Hiếm lắm anh chị ạ, họ thường nói dân đảo biết bơi trước khi biết đi mà. Có chết là do bão biển dữ dội lắm, chớ không phải như vầy...
– Nghĩa là...
– Nghĩa là à ờ, có vẻ một cái chết không bình thường, nghĩa là có cái gì đó liên quan đến niềm tin bất di dịch của đảo, mà mình cho là mê tín dị đoan vì chẳng căn cứ vào đâu cả. À, ờ, thật tình khó tin lắm, nhất là chúng tôi là dân Tây học, tin làm sao được, mà biết nói làm sao. Hồi đó hay tới ngay cả bây giờ, chúng tôi cũng chẳng biết hư thực ra sao... Ối, mê tín dị đoan ấy mà!
Cụ ông lại im, nhìn cụ bà. Nhóm truyền hình lặng lẽ chờ đợi. Bà cụ sịt mũi:
– Thiệt tình, thà không có con, chớ có con dù là nhiều đứa mà một đứa chết như vậy cũng không chịu nổi, huống chi một đứa duy nhất. Tội nghiệp ông Dương bà Cúc quá chừng. Nhìn thấy cái xác...
Ông cụ nhìn bà cụ ngừng giữa chừng, ái ngại:
– À ờ, có lần ông Dương thú thiệt với ông Tuấn và tôi là ổng chỉ miên man nghĩ chuyện chết cho rồi. Tình cờ thằng Trung nói bác Dương ơi, không có thằng Hải con biết bác buồn lắm, vậy khi nào có gì cần con trai giúp thì bác gọi con qua nghe. Bây giờ con là con trai của bố Tuấn và bác Dương. À ờ, nó nói ngây thơ vậy khiến ổng tỉnh ngộ một chút.
– Như Trời sắp đặt ấy cụ nhỉ.
– Thế. Nó là thằng mê sách mà, thường đọc và hỏi han ông Dương giải thích, nó nói có khi ổng đang giải thích cái gì đó rồi lại ngớ ra một lát.
– Chắc nhớ tới cu Hải đấy cụ nhỉ.
Lát sau ông cụ âu yếm đập nhè nhẹ lên tay bà cụ, mỉm cười:
– Xin lỗi các anh chị nhé. À ờ, bà này, bà phải nén xúc cảm để kể tường tận cho anh chị nghe những gì bà còn nhớ chứ. Kể đi, mình cứ giữ cái xác hồi giờ cũng mệt rồi.
Nhóm truyền hình ngớ ra:
– Thưa cụ, giữ cái...
Ông cụ phá ra cười:
– Không phải chúng tôi chưa chôn đâu, giữ là giữ trong lòng ấy. Bởi vì hư thực chẳng biết sao nên chẳng dám kể cho ai nghe, mà thắc mắc thì vẫn có. Bởi vì đó là kiểu chết lạ lùng... À ờ, này, bây giờ bà nhà tôi kể, có sao kể vậy không bình luận gì nhé. Tùy các anh chị nghĩ sao thì nghĩ.
Bà cụ chiêu ngụm trà, tựa lưng vào ghế:
– Các anh chị muốn nghe không?
– Dạ có chứ ạ.
– Đó là mục đích chính của đám nhà báo dấm dớ các anh ấy mà bà!
Cả bọn bật cười, họ nhìn ông cụ như cám ơn đã cắt bớt những phút giây nặng nề. Một anh bạo miệng:
– Thưa cụ, sao hai cụ cứ cho bọn nhà báo chúng cháu là dấm dớ ạ?
– Thì đúng thế rồi, oan ức nỗi gì. Chẳng dấm dớ mà làm báo được à?
– Thế thì chúng cháu lại phải hỏi dấm dớ thêm nữa vậy, vì cụ bà cứ lưỡng la lưỡng lự có chịu kể tiếp đâu.
Cụ ông đỡ:
– Bà ấy còn lựa lời đấy.
Cụ bà nhìn chồng:
– Dễ dân đảo đã thấy lo từ khi thằng Hải chết mà mình không đoán ra đấy. Ông nhớ không, bọn đàn bà thì câm như hến mà mặt tái mét, lấm la lấm lét hết nhìn nhau đến nhìn ông Dương bà Cúc. Còn bọn đàn ông, họ cứ hỏi đi hỏi lại là thằng bé rơi ở đâu, đến khi chỉ chỗ xảy ra tai nạn thì họ gãi đầu, lảng ra xầm xì với nhau, mình đến gần thì họ im.
Cụ ông tán thành:
– Đúng! (Cười cười) Ban đầu mình còn bực mình mà thương hại vì thấy họ thô thiển quá, ai đời họ cứ nháy nhó nhau tránh mình!
– Rồi đến khi tìm ra cái xác thì còn tệ hơn nữa.
Thấy đám truyền hình ngớ mặt ra, cụ ông giải thích thêm:
– Hồi mới đến, mình là người lạ, nếu có phân biệt cũng là tự nhiên thôi. À ờ, nhưng lúc đó thì coi như bọn chúng tôi đã được chấp nhận rồi, vì mình ăn ở tử tế, rộng lượng là đàng khác. Thế mà từ hôm vớt được xác thằng Hải, à ờ, cứ như là họ muốn tránh xa bọn mình.
– Sao cụ nghĩ thế? Chắc là họ ngại nhắc lại chuyện buồn thôi.
– Thì lúc đầu ai cũng tưởng thế. Cho đến một hôm bà Cúc bảo lạ nhỉ cứ thấy bọn mình là họ qua đường mà lại đi cứ cắm đầu đi không nhìn. À ờ, chớ trước kia chào hỏi tử tế lắm mà. Ngay cả những người nghèo mà các bà nhà này hay giúp đỡ, cũng tránh luôn, bà nhỉ.
Bà cụ lắc lắc đầu buồn buồn:
- Ghê gớm hơn nữa là một hôm bà Cúc đem quần áo cho một nhà chài, thấy bả tới gần là họ tránh đâu mất. Bà Cúc để lại gói quần áo, mấy hôm sau thấy có cái tấp lên bãi, tức là họ ném ra biển.
- Ủa, kỳ cục vậy cụ!
- Thì vậy. Thấy mình là họ chạy như sợ ma đuổi huống chi đồ dùng...
X
Phải khó khăn lắm mới kéo Dương và Cúc ra về khi nhóm thợ lặn cuối cùng cũng lên bờ. Cúc giẫy nẫy:
- Tôi không thể bỏ cu Hải một mình. Để tôi ở đây với nó. Biết đâu chút nữa nó mới chịu bơi về…
Bà con xúm lại bứng Cúc và Dương khỏi mặt cát. Vài người dân chài an ủi:
- Anh chị cứ về nghỉ đi kẻo bịnh, tụi này ở đây canh nó cho.
Cúc dằng lại không nổi với sức kéo của nhiều người. Về nhà Cúc Dương, mọi việc một tay Hiền điều khiển người làm và thu xếp cho cả bọn. Hiền pha sữa, lặng lẽ mở tủ tìm thuốc ngủ bỏ vào, ép vợ chồng Cúc uống. Tuấn và Cường canh sát họ. Tuấn điện thoại hỏi thăm vợ một mình lo cho trẻ nhỏ ở nhà. Đêm, chẳng ai ngủ thực sự. Thỉnh thoảng thiếp đi một tí lại giật mình dậy, dáo dác trông chừng Cúc và Dương đến lúc đó vẫn chưa hề mở miệng.
Sáng sớm Tuấn bảo Cường:
- Ông ở nhà với bà Hiền canh chừng khi họ thức dậy, tui chạy ra bãi.
Và Tuấn lái xe lao đi. Bãi vẫn lặng yên. Anh ngồi bệt xuống cát, châm thuốc rít từng hơi dài đầu óc trống trải mông lung. Qua một đêm hầu như không ngủ và bất lực trước tai họa, anh thấy chưng hửng trước cuộc đời. Bây giờ anh chợt hiểu bố thường nói mọi bất trắc có thể ập đến con người bất kỳ lúc nào, và họa vô đơn chí, nó sẽ không đến một mình mà thường rủ rê nhau. Chợt anh cười khẩy, còn tai họa nào ghê gớm hơn có thể xảy ra cho vợ chồng bạn nữa. Mất đứa con là mất hết đời mình, mất hết ý nghĩa cuộc sống rồi . Không biết tương lai gì đang chờ đợi Cúc Dương, số phận nào sẽ dành cho họ khoảng đời còn lại? Và vợ chồng anh, vợ chồng Cường, có thể làm gì cho bạn?
Tuấn giận dữ ném mạnh tàn thuốc, nó bay đáp gần mép nước. Biển sáng lặng lẽ như tờ, dân chài đã ra khơi và chưa đến giờ về. Sao bầu trời có thể êm ả thế mà dửng dưng nhìn một thằng bé con không biết đường về. Mặt nước mênh mông sao có thể mang màu xanh dịu dàng đầm ấm thế mà trong lòng thì hung hiểm nuốt chửng cu Hải mất rồi. Đầu óc Tuấn suy nghĩ mông lung đến các bạn, đến mình, đến trẻ nhỏ, đến kỷ niệm quá khứ và đến tương lai. Quá khứ vẫn nguyên vẹn đó nhưng cái gì đang chờ đón họ?
Hãy còn đang lơ mơ nhiều ý nghĩ thì có tiếng xe, Tuấn quay lại, nhóm bạn kia rồi. Cúc chạy ào dọc bãi, miệng không ngớt kêu Hải ơi, con ở đâu, mẹ đây Hải ơi, về đi con. Cả nhóm lặng lẽ chạy theo sau. Nước mắt ràn rụa trên mặt Hiền óng ánh dưới vầng thái dương vừa trồi khỏi mặt nước. Màu cam. Màu cam nồng nàn trên những khuôn mặt thất thần xanh tái.
Cúc cứ chạy như ma đuổi, như có cu Hải đâu đó vẫy tay. Tóc Cúc xổ tung không chải bới bay bay trong gió sớm, bộ đồ bận hôm qua dính vệt bơ trên đùi phải khi đùa giành con tôm to với Thúy. Dấu vết trẻ trung còn đó mà con người đã khác lắm rồi. Chiếc áo sứt một khuy hôm qua giằng xé cưỡng lại không chịu về. Một người đàn bà tả tơi. Một người đàn bà điên dại. Một người đàn bà trong cơn đau xé tận cùng. Vừa chạy Cúc luôn miệng gọi con, nói mẹ đến đây, con cố bơi vào bờ. Mệt thì bơi ngửa, nằm ngửa thả lỏng người, mẹ tập con bơi giỏi rồi mà, ráng bơi, bơi về với mẹ nghe con. Hải ơi, con đang ở đâu… Sáng rồi con thấy không, hôm qua nay chắc con sợ bóng tối lắm, bây giờ sáng rồi con ơi, sáng lắm rồi…
Hiền chạy nhanh ôm chầm giữ Cúc lại, nấc từng cơn:
- Bà ơi bình tĩnh, bình tĩnh lại đi. Ngồi xuống một lát đi mà.
Cúc giằng ra:
- Nó chờ mình đằng kia mà bà bảo ngồi.
Rồi vụt chạy đi. Vài thuyền cá trở về. Mọi người áy náy nhìn nhau. Và giữa tiếng kêu gọi thất thanh của Cúc, nhóm dân chài nói rất khẽ chia cá chia tôm, khác với ngày thường.
Nắng bắt đầu gay gắt, mặt Cúc rám nắng đỏ gay mệt lả té xuống cát. Dương vẫn âm thầm. Dân chài lại phụ với Cường và Tuấn đưa hai bạn về. Thúy đã lo mọi việc ở nhà, xin phép cho trẻ nhỏ nghỉ học, báo tin cho nhà trường biết Dương phải nghỉ dạy thình lình, giao công ty Tuấn cho viên quản lý trông nom và báo cho nhóm đồng nghiệp của Cường tiếp tục dự án không có Cường ít bữa. Thúy nghĩ xáo trộn nào cũng có thể thu xếp, bất hạnh nào cũng có thể vượt qua. Không ai to tiếng, mọi lời nói đều dè xẻn, trông họ khác làm sao mới chỉ cách một ngày!
Bạn bè bắt đầu tới thăm. Ai cũng khe khẽ, trang trọng và không dừng lại lâu. Linh mục Thuần gọi Tuấn ra ngoài nói riêng gì đó rồi vào phòng ngồi chiếc ghế đặt cạnh giường Cúc đang nằm. Ông nắm chặt tay bạn không nói gì, chỉ lâm râm cầu nguyện rồi làm dấu thánh và ra về. Bất cứ lời nào lúc này cũng đều vô nghĩa với Dương và Cúc.
Bác sĩ chích thuốc an thần cho Cúc. Buổi chiều Cúc nằm lơ mơ. Tuấn là người rất sợ tình huống đau buồn tập thể, anh thà đi đâu đó chịu đựng một mình. Vì vậy Tuấn lại ra bãi dò tìm, nghe ngóng, chờ đợi xác thằng bé trôi dạt vào nơi nào đó. Dương cũng đi. Tuấn dặn Cường:
- Ông canh chừng không cho bà Cúc ra biển đấy nhé. Nếu cần thì cột bà ấy lại.
Đôi bạn lặng lẽ bước dọc theo bờ. Dưới ánh nắng chiều, họ dõi mắt buồn thiu nhìn màu nước xanh đậm trong vắt, thản nhiên. Nắng lung linh lung linh mặt nước, chập chờn đưa đẩy ánh chiều đang rơi xuống từ từ. Hơi nước thoang thoảng bay lên, mùi biển khơi vẫn nồng nàn dù thêm bớt một mạng người chìm đâu đó trong lòng. Đến chỗ tảng đá Tuấn kéo tay bạn ngồi xuống. Họ vẫn im lặng, mọi ngôn từ đều trở nên rối rắm vô ích. Dương kín đáo, rất ít lời và dễ chịu với mọi người. Tai họa này sẽ cắt mất khúc lưỡi còn lại. Tuấn kín đáo liếc nhìn bạn. Cũng trên tảng đá này vài tuần trước, ba người đã ngồi hút thuốc tán gẫu cười nói như ngày hôm nay không bao giờ hiện diện. Mới chỉ hai mươi bốn giờ mà trông Dương khắc khổ và già đi cả mười năm. Gương mặt bình thường hay cười mỉm kia có cái gì đanh lại, xa lạ. Tuấn chột dạ không biết làm gì cho bạn, tay chân anh thấy thừa thãi nhưng ngại ngần không dám châm điếu thuốc. Tuấn úp mặt vào hai tay để không nhìn bạn nữa, để thấy cái vô lý của cuộc đời, một sớm một chiều có thể thay đổi tận gốc rễ con người…
Thúy pha sữa, đưa viên thuốc an thần bác sĩ cho khi chiều, ép Cúc uống. Cúc như con rô bô cử động ơ hờ chậm chạp, ngoan ngoãn nuốt viên thuốc như đã chấp nhận sự thật rồi, rằng con mình sẽ không về nữa. Thúy và Hiền ngồi cạnh nắm tay cho đến khi Cúc chìm vào giấc ngủ, một giấc ngủ nặng nề có tiếng kêu đau đớn thoát khe khẽ từ cổ họng và nét mặt có khi nhăn nhíu thất đảm. Hiền kéo chăn cho bạn và nằm xuống bên cạnh. Bên ngoài đêm mênh mông, biển mênh mông. Mỗi sinh vật trong nhà thu nhỏ lại, chịu đựng. Giấc ngủ chập chờn trêu ghẹo mọi người. Cái gì cũng khoác màu đen tối ám.
Sáng hôm sau, rất sớm nhìn chưa thấy đất, tiếng đập cửa thình thịch đánh thức mọi người trong cơn hoảng hốt. Một anh dân chài hiện ở cánh cửa vừa mở, hớt ha hớt hải:
- Thấy rồi, thấy thằng bé rồi...
Tuấn mừng quýnh ấp a ấp úng:
- Nó… nó…
- Ơ… cái xác dạt vào bãi dưới kia.
A, cái xác!
Cả bọn tuông cửa chạy theo anh dân chài. Mặt trời chưa ửng hồng, còn xanh xao lắm. Trong cái lành lạnh ban mai với lớp sương mù, một dãy người sải chân như mấy con ma chạy tránh rạng ngày. Thúy lạch bạch sau cùng. Không ai để ý tới ai, cứ chạy như trước mặt là niềm hứa hẹn. Cúc bương bả nhưng lụp chụp vấp ngã nhiều lần, có lẽ hiệu quả thuốc ngủ hãy còn. Hiền xốc bạn đứng lên, chạy tiếp, chạy mãi mà anh dân chài vẫn chưa ngừng, chạy muốn hụt hơi, chạy như không kìm chân lại được. Những bàn chân qủy ám. Xa xa trong màn sương mỏng, một khối đen đen rõ dần. Là nhóm dân chài ra khơi chuyến lưới đầu đã trở về, tình cờ nhìn thấy trên bãi có cái gì mang máng hình người…
Thấy nhóm bạn gần đến, một anh chài bỗng tách đám chạy tới kéo Tuấn ra nói nhỏ. Tuấn khựng lại một giây rồi lao nhanh về phía Cúc, kéo giữ lại. Cúc dằng mãi không được, cúi xuống cắn tay Tuấn. Thế là điều đau đớn không giấu ai được nữa. Cúc nhào tới trước, đứng sững nhìn. Cúc nhăn nhó lùi lại vài bước rồi ngã bật ra gào thảm thiết:
- Không phải cu Hải, không phải. Con tôi đâu?
Và Cúc đổ xuống, bất động.
Bỗng Dương quả quyết đi đến cái xác, cởi chiếc sơ mi vẫn bận từ hôm ra đảo quấn thi thể đứa bé hở hang xương xẩu lại. Mặt anh đanh đá thản nhiên. Không một lời, anh bồng cái xác quay về.
Mặt trời bò lên hối hả. Cũng màu cam lộng lẫy ngày lên xứ nhiệt đới, rực rỡ chiếu rọi cái xanh xao chết chóc rờn rợn thịt da. Đoàn người lại rồng rắn ra về. Một người đàn ông ôm xác con chai đá dẫn đầu, một người đàn bà chưa chết nhưng chỉ là cái xác, mềm nhũn trong tay bạn. Năm sáu người nữa cúi đầu lặng lẽ nối bước. Đám dân chài theo sau xa hơn một chút, mỗi lúc một xa, rồi đứt đoạn, rồi mất hút...
X
Bà cụ lại ngừng. Nghèn nghẹn đứt hơi. Cô phóng viên lau vội mắt mình rồi lau cho cụ. Một anh trao ly trà, cụ hớp một ngụm, run run:
- Trong đời, chưa bao giờ chúng tôi chứng kiến một đám rước lạ lùng bi thảm như vậy. (Quay sang cụ ông) Hả ông, mình còn nhớ như mới hôm qua.
Cụ ông gật đầu nắm tay cụ bà. Nắng xuyên qua cửa sổ soi rõ hàng hàng cổ vật bày trong tủ kính, ngăn nắp bóng bẩy không một hạt bụi. Trên tường rải rác mấy bức tranh họa sĩ nhà, ở góc trái phòng khách, bên trên chiếc bàn con bày bình hoa, đặc biệt có tấm hình ba gia đình đầy đủ, trong vườn hoa hai cụ. Ba bà ngồi ghế, áo dài hoa tím cà. Ba ông đứng sau lưng sơ mi trắng ngắn tay, nơ tím than cài cổ áo. Hai con gái áo đầm trắng và hai con trai sơ mi xanh da trời quần sọc xanh dương đậm, ngồi trên cỏ. Tấm hình mà bà cụ đã bình luận rằng “Đó là những ngày tràn trề hạnh phúc, khi chưa chuyện nào dù nhỏ nhặt có thể khiến nụ cười tắt trên môi”.
Nhóm làm phim áy náy chẳng biết nhìn vào đâu, lên hai khuôn mặt khả kính kia dàu dàu kỷ niệm, hay nhìn tường thì bất lịch sự, vậy thì cúi đầu, cho những tình tiết vừa nghe thấm lịm vào mình. Họ như nhìn thấy trong buổi sáng lạnh lùng làn sương mỏng và mặt trời còn ngái ngủ cách đây mấy chục năm, những con người chưa tỉnh giấc đã phải đối phó thế nào với tình huống bi đát cực kỳ... Và thân hình Cúc đổ xuống như bức tượng đồng bị giật. Và Dương lặng lẽ sắt đá cởi áo khoác lên con, ôm nó bước đi với bước chân phù thủy… Một bức tranh bi hùng tráng lệ.
Cụ ông đằng hắng, mọi người nhìn lên, cụ cười vẻ trêu chọc:
- Các anh chị thích nghe tiếp chứ?
- Thưa cụ vâng ạ, chắc chắn rồi.
- Đồng thanh nhỉ. Thế thì phải hiểu là tôi đã nhịn từ nãy giờ rồi nhé. À ờ, tôi phải đi đây không vỡ bàng quang mất.
Thật may cụ ông lúc nào cũng giúp nỗi lòng vơi nhẹ đi. Cụ với tay lấy cây ba tong:
- Tôi còn đi đứng vững vàng lắm nhé, nhưng bà nhà tôi bị té mấy năm trước nên phải chống gậy cho chắc. (Cười oang oang) À ờ, thế là nhất định bắt tôi cũng chống gậy, nếu không thì trông tôi trẻ hơn bà nhiều quá!
Bước vài bước, cụ ngừng lại:
- Bà cũng đi xả nước ối đi, đừng cố giữ rồi chết như cô dâu Đà Lạt gì đó anh chị có biết không? (cả nhóm gật đầu) Ờ, nhà báo mà không biết chuyện đó thì vất đi. Mà ngu nhỉ, mắc thì bảo xe ngừng cho đi xả, xấu hổ gì mà nín đến nỗi bể bọng đái. Đi không bà? Tôi chưa muốn bà chết.
Mọi người cười vui vẻ. Bà cụ lắc đầu nhìn theo ông cụ, cái nhìn trìu mến ngọt ngào.
- Thưa cụ, cụ ông lúc nào cũng vui tính phải không ạ? Còn hai cụ kia thì sao ạ?
Bà cụ dụi mắt:
- Ôi, ba ông ấy cùng tuổi nhau mà mỗi người một tánh khí, khác nhau lắm. Ông nhà tôi lúc nào cũng nhanh nhẩu cười đùa trêu chọc, ông Dương thì hiền lắm và ít nói, biệt danh là hến đứt lưỡi. (Lắc đầu) Ông Tuấn nếu không nhờ một tay bà Thúy cai quản thì làm tới đâu chắc tiêu sạch tới đó, rộng rãi hay quên lắm. Nhiều khi nói hớ, bị cả bọn la hoài.
- Vậy mà hạp nhau lắm hả cụ?
Cụ cười âu yếm:
- Ối cha, cứ như họ bổ túc cho nhau vậy. Thét rồi mỗi người cũng không còn tự do hoàn toàn nữa, thấy hai bạn không tán thành điều gì mình muốn làm, là bỏ ngay. Cho nên công việc của ông nào hay muốn làm cái gì, hai ông kia đều biết hết cả, chẳng có gì riêng tư. Nói chung hai ông rất nể nang và nghe lời ông Dương lắm.
Rồi cụ chép miệng hướng mắt về chỗ tấm hình, một mảng da đã trôi phấn vì nước mắt:
- Anh chị thấy cái hình ở kia chớ, chụp vào dịp tết năm bé Ti cu Hải được bảy tuổi. (Mọi cặp mắt hướng về tấm hình. Bà cụ cười dịu dàng) Tội nghiệp, năm nào bà Thúy cũng sắm tết cho mọi người ăn bận theo ý mình. Ai cũng kết tội Thúy độc tài nhưng mọi người đều vui vẻ diện đồ mới, chụp hình do bà ấy sắp xếp. (Chép miệng) Rồi năm hai đứa lên tám tuổi thì vậy đó, nên tết năm sau không thể nào chụp hình chung nữa. Không thể nào nữa. Đó là tấm hình ba gia đình chụp chung đầy đủ lần cuối…
Anh nhiếp ảnh bước đến chụp cận cảnh bức hình. Một con bướm từ cửa sổ vào bay lượn bất an trên bình hoa rồi hối hả bay ra. Mọi người nhìn theo. Ai đó thì thầm:
- Biết đâu chẳng là linh hồn một trong những người trên ảnh nhỉ?
Câu hỏi kéo mọi người trở lại câu chuyện. Có tiếng chép miệng:
- Nỗi đau của ông Dương bà Cúc quả là ghê gớm…
- Anh chị biết đó, nước mắt chảy xuống. Cha mẹ thương con cái nhiều hơn con cái thương cha mẹ. Cho nên khóc cha mẹ không đau đớn bằng cha mẹ khóc con.
- Ông Dương lại sống nội tâm cụ nhỉ...
- Hai ông cứ tìm cách giải khuây ông Dương. Nhiều khi cứ sợ lỡ lúc không có mình, ông Dương làm bậy cái gì.
Ông cụ vừa bước ra nghe, nói thêm:
- À ờ, có lần ông ấy ngồi nhìn biển trầm ngâm rồi nói phựt ra: mục đích con người sống để làm gì nhỉ? Chúng tôi sợ điếng, chẳng còn nhớ giải thích sao, nhưng người nào cũng ráng nói cái gì đó, à ờ, chẳng biết có trúng trật gì không nhưng cốt sao cho ông ấy đừng có ý nghĩ làm bậy như tự tử chẳng hạn. Sợ lắm anh chị ạ.
Trầm ngâm một lúc, cụ ông tiếp:
- À ờ, về sau đã yên yên, tụi tôi hỏi buổi sáng trên bãi, làm sao biết đó là xác cu Hải mà gói ôm về, ông Dương trả lời là trong một tích tắc, ổng nghe cái mùi của cu Hải sát bên mũi như mỗi khi cha con hôn nhau. À ờ, anh chị biết đấy, mỗi chúng ta có cái mùi riêng. Chứ thi thể đã bị rúc rỉa hết thịt da... chỉ chừa lại một nửa khuôn mặt mà lại sưng phù mọng nước tái vàng, phập phều suýt bong ra, môi sứt vồng lên tím đen, hở hang gớm ghiếc dị kỳ, thì khó nhận biết mấy. (Có tiếng như nấc cục) À ờ, phần còn lại là bộ xương thiếu hụt, chân trái rơi đâu mất. Bà Cúc nhất định không phải, không phải xác con mình, cũng dễ hiểu, nó cứ như cố tình thách thức người thân nhận diện ấy mà.
Rồi sau một ngụm trà:
- À ờ, mà kể cũng lạ. Bà Cúc bơi giỏi lắm, giỏi nhất đám. Bà dạy cho cu Hải bơi lúc mới lên ba. Và nó bơi cũng rất giỏi. Mà kỳ, năm đó mỗi lần bơi ngửa nó thường nói mẹ mẹ, con chết trôi nè mẹ, rồi nằm úp xuống, xuôi tay. Cho nên sau đó thì bà Cúc cứ tự đổ lỗi cho mình, bảo là không cảnh giác lời con nói, đáng lẽ đã phải không cho nó xuống nước nữa... Thôi bà kể tiếp đi...
Bà cụ trầm ngâm:
- Thiên hạ cứ nói gieo nhân nào gặt quả ấy. Mà ông bà Dương Cúc thì có gieo cái gì để gặt quả như vậy chẳng biết...
- Cho nên nhiều khi ông Dương cứ trầm ngâm triết lý, lầm bầm không biết có trời hay thượng đế không, và nếu có, họ có mắt hay tình cảm gì không…
X
Cúc cứ tự trách là con nằm ngoài bãi chờ mình tự bao giờ, chắc là từ khuya, khi thủy triều lên, vậy mà mình thản nhiên nằm nhà ngủ, để mãi đến sáng có người gọi, không thì cũng chưa biết. Trong đêm, một mình bơ vơ trên bãi, chắc chắn cu Hải sợ lắm. Những đêm này không trăng, trời biển mịt mùng và sương mù phủ lạnh vào buổi sáng. Cu Hải ăn bận phong phanh. Còn mình thì nằm trong chăn, mộng mị thấy bay lửng lơ trên không, trời âm u nhiều mây và cây cối bên dưới tím sẫm. Xa xa, rất xa nơi Cúc lượn đôi cánh vô hình, căn nhà nhỏ của ai xiêu vẹo dưới ngọn gió phà từng cơn ngắt quãng, nấc cục. Cúc muốn bay tới đó, muốn nhìn vào, muốn gặp người bên trong. Nhưng gió cứ đẩy ra xa mỗi lúc muốn gần. Và lao chao trong bầu trời thiếu ánh sáng, Cúc lao ngược về thời niên thiếu, những ngày vừa nách em vừa chơi lò cò khiến em khóc vì bị xóc, những buổi học bị cô giáo mắng và bạn bè chọc quê vì không thuộc bài, lớn lên là những ngày tan học chạy vù ra chợ giúp mẹ bán hàng rồi thu vén gánh về khi trời chập choạng. Rồi ở lại lớp hai lần, ì ạch cố vào đại học cho nở mặt nở mày thì lớn tuổi hơn mọi người cùng lớp. Rồi gặp Dương, Cúc giã từ đời ôm sách, nghĩ là chẳng hợp với mình…
Từng quãng đời lướt qua như khúc phim quay nhanh đến chóng mặt, vậy mà lại rất rõ ràng không thiếu đoạn nào… Lấy chồng rồi vẫn thỉnh thoảng về giúp mẹ, thỉnh thoảng vẫn gánh hàng về, những tờ giấy tiền vàng bạc giúp cho người bên kia thế giới có cái mà xài. Cúc thấy mình thoăn thoắt bước đi gánh hàng trên vai kĩu kịt, nặng hơn thường lệ, như tất cả sức nặng thế gian nằm cả vào đôi quang gánh, và con đường quen thuộc thuở xưa sao cứ kéo dài ra mãi, vô tận, mênh mông. Chợt giật mình làm đổ gánh hàng khi tiếng gì thình thịch trong buổi sáng tinh mơ. Hàng vàng mã bay tứ tán trong cơn gió ở đâu ào đến như oan hồn bất thần đòi nợ… Nhưng không có Dương thời trai trẻ tình cờ ngang qua đỡ lên và nhặt giùm hàng giấy bay bay trong chiều chập choạng, cũng không phải chiếc xe đạp tông vào Cúc mà là tiếng đập cửa khẩn khoản dập dồn...
Cúc khóc khàn cả giọng, mắt môi sưng húp, đập ngực thình thịch bảo mình là người mẹ tệ nhất trên đời vì thiếu trách nhiệm với con.
- Bà Hiền ơi, chắc thằng Hải trách tui lắm hả bà?
Hiền mắt cũng đỏ hoe mếu máo, kéo Cúc vào phòng tắm gội thay áo quần cho bạn, xay sinh tố bắt mọi người cố nuốt. Cái xác cu Hải vướng cổ mọi người, nhỏ bé mà che hết mặt trời. Họ chỉ thấy một màu chì bao trùm nhân gian và trời mùa thu mà cực kỳ oi bức.
Người ta bàn nhau làm tang lễ. Cúc Dương không có đạo nào cả, linh mục Thuần chỉ cầu nguyện kín đáo cho thằng bé, không làm lễ chính thức. Cả bọn theo lời khuyên người lớn tuổi trên đảo, bảo sao làm vậy, nhang đèn tụng niệm ba ngày. Đèn đuốc sáng trưng khắp nơi, cho thằng bé khỏi sợ bóng đêm, cho nếu nó đi đâu cũng thấy đường về, cho nếu nó thực sự ra đi cũng trong chan hòa ánh sáng. Trong chiếc quan tài nhỏ, thay vì chèn ép nhiều loại lá thơm như thiên hạ vẫn làm, Cúc nhất định chất đèn cầy và diêm quẹt, nó sợ bóng tối lắm, phòng không bật đèn nó không ngủ được, phải có đèn cầy thắp cho sáng. Cúc cũng muốn có chiếc nạng cho con, chân trái nó bỏ mất dưới biển rồi, phải có nạng chớ không làm sao nó bước. Mọi người làm theo ý Cúc. Dương âm thầm đáng sợ, có khi anh ngồi yên nhìn mọi người, dửng dưng như không liên hệ đến mình. Cường nói khẽ với Tuấn:
- Thà thằng Dương cứ vật vã như bà Cúc tao thấy còn đỡ lo hơn.
- Ừ, tụi mình phải cẩn thận không được rời mắt khỏi nó.
Đến giờ đóng nắp quan, Dương bảo “Khoan”. Mọi người nhìn anh lo lắng. Đó là tiếng nói đầu tiên từ hôm đem xác Hải về. Mắt anh đục lờ mệt mỏi nằm trên hốc má xanh xao. Anh đến ngồi cạnh quan tài, áp tay sát bàn tay con không còn là bàn tay nữa, được vải liệm quấn chặt vào người, bấy giờ những giọt nước mắt đầu tiên mới trào ra, xối xả không ngờ, và anh bập bẹ trong tiếng nấc:
- Bố xin lỗi. Lẽ ra bố phải cõng con lên bờ… Lẽ ra bố phải lặn suốt đêm với con... Lẽ ra bố phải nằm ở chỗ con hiện tại…Sao con nỡ đi không nói tiếng nào?
Nước mắt được chứa trong bình thông nhau, nó tràn lan từ gia đình đến bè bạn xa gần. Tuấn ra ngoài, cổ họng đau điếng, đắng ngắt.
Buổi sáng động quan, cái huyệt đào từ hôm kia khô ráo, bây giờ nước ở đâu trào lên lưng nửa. Người ta múc nước, gần hết nó lại cứ ứa ra. Vài hôm nay Trời chỉ nằng nặng, chưa mưa, chỗ này vùng cao, đào giếng phải rất sâu cũng chưa có nước, làm gì mới hơn một thước sâu mà nước đã tràn trề. Lạ, người ta nhìn nhau thầm hỏi. Người ta bàn nhau hay đào chỗ khác, Cúc không chịu. Đây là chỗ cu Hải treo võng, có bốn cây bàng cao tạo thành hình vuông bọc khu đất nằm giữa, mát mẻ, kín đáo, riêng tư. Bốn cây bàng này đã có từ thời Cúc Dương mua miếng đất, tàng xum xuê, lá dày và to, khi đổi sang màu đỏ cam thì chúng nổi bật giữa khu vườn thênh thang bạt ngàn màu xanh cây cối. Và dù vườn lan trăm họ của Cúc thu hút chú ý của bất kỳ ai đặt chân đến, cu Hải vẫn nói cả khu vườn bao la nó chỉ thích nhất chỗ này, mẹ đặt đây là “Khu cu Hải” nghe mẹ. Cúc cười ừ, khu mông gì cũng được, nó là của con. Bây giờ theo Cúc, cu Hải đã chính thức chọn nơi làm huyệt mộ cho mình thì không dời chỗ khác được. Nước trào lên có thể tìm cách trị, còn ý muốn cu Hải thì không thể sửa đổi, nhất là bây giờ không bàn bạc được với nó nữa.
Vài bô lão trong làng khuyên nhủ Cúc Dương, thôi thì số cháu phải gần nước, biết đâu chẳng là cái hay trời dành riêng cho nó, nằm trong nước mát mẻ bình an, con người đã chẳng thành hình trong bụng mẹ giữa nước là nước đó sao. Trời lại sắp mưa, nếu không mai táng hôm nay phải đợi đến chín hôm sau mới được ngày, lâu quá. Vào thời điểm này điều gì cũng có thể vô lý hoặc có lý. Cuối cùng Cúc nhượng bộ. Người ta múc những giọt nước cuối cùng, vội vàng trải rơm xuống và vội vàng hạ huyệt... Sau kinh kệ tụng niệm của các vị sư, cha Thuần hai tay ôm quyển Thánh kinh đến trước ngôi mộ chưa lấp đất:
- Lạy Cha, hôm nay chúng con xin gửi bé Hải vào tay Cha. Xin Người quan phòng, dẫn dắt và thương yêu nó. Và cũng xin người ban ơn phước cho chúng con chịu đựng nổi cảnh đời không còn nó nữa. Amen.
Nhiều tiếng nấc nổi lên bên cạnh Cúc đã xỉu tự bao giờ. Rồi những nhát xẻng múc đất bữa trước đã đào, ném xuống, ném xuống, lum lúp ngôi mộ mới...
Đêm, trời nổi cơn dông. Sấm chớp ào ạt xé tan nát bầu trời đang hạ thấp, và những giọt mưa trình trịch hối hả tranh nhau tuôn xuống. Người ta lại vội vàng đóng bốn cây cọc giăng tấm ny lông che chở nấm mộ. Từ chiều Cúc đã khăn gói nhất định nằm trong căn nhà gỗ của cu Hải cách đó vài chục thước, nơi nó và các bạn vẫn làm “sào huyệt” mỗi cuối tuần, để không bỏ con bơ vơ. Dương không bỏ vợ một mình, và Hiền với Cường cũng không bỏ bạn, Thúy và Tuấn nằm trong nhà. Gió nổi lên, ấm ức vội vàng như trễ nãi. Gió rít khe khẽ giữa ngói, thổi vù vù giữa lá, quật mấy tàu chuối phần phật như chiếc quạt tất bật những ngày oi bức. Bóng đèn mắc trên mộ lao chao đổ xuống. Tối đen. Cúc đội mưa chạy ra mộ và mọi người bám sát theo. Mưa. Gió. Bóng đêm. Đất nhầy nhụa. Tấm ny lông lồng lộn bất an. Con người cuống quýt ra vào...
Hai ngày sau trời vẫn cứ mưa, lúc to lúc nhỏ. Nước biển dâng lên, đục ngầu, mang rác rưởi từ đâu tấp vào bờ bãi. Gió cuối thu kết hợp với cơn mưa dai dẳng khiến hòn đảo ít dân cư thêm vẻ hoang vắng, sinh hoạt chậm lại. Riêng tại nhà Cúc Dương thì nhóm bạn vẫn đùm túm nâng đỡ họ vượt lên nỗi đau. Trẻ con đã hiểu cu Hải không bao giờ trở về cùng chơi với chúng nữa. Thằng Trung vốn nghiêm túc, thích sách vở hơn là bày các trò chơi hấp dẫn như Hải, lặng lẽ làm một con diều hình cá sấu Hải thích, đặt lên mộ bạn. Thỉnh thoảng ngừng mưa, bé Ti đem bánh hay trái cây ra đặt lên ngôi mộ nhỏ, một ngôi mộ bị nước mưa xói lở hai bên, cằn nhằn:
- Của Hải đây nè. Hải hư lắm, sao không về chơi mà chết chi vậy.
Đêm đêm Cúc nhìn trời mịt mùng, giật mình giữa khuya nghe ngóng. Ban đêm cũng là lúc thần U Ám với mái tóc đen dài chấm gót, với đôi mắt trũng sâu không tròng, với chiếc miệng xệ đôi môi mỏng dính kéo dài tận mang tai hiện hình, kể lể vẽ vời trước mắt Cúc tất cả những gì tăm tối bi ai nhất. Mặc dù Thúy và Hiền lặng lẽ bỏ thuốc an thần vào những ly nước trái cây ép Cúc nuốt, vẫn không hiệu nghiệm là mấy. Cúc vẫn thao thức, mắt lao láo trong đêm. Thuốc men không trấn áp được nỗi day dứt người mẹ, và không nỗi đau nào cày xới lòng người như nỗi mất con. Thỉnh thoảng Cúc thiếp đi, chập chờn lao chao giữa tưởng tượng và cuộc đời thật, thấy con đó rồi chẳng thấy con đâu, nỗi ghê gớm đêm khuya tỉ tê bên tai rồi mở choàng mắt ra thì không còn nữa…Những con gà con nhỏ xíu màu vàng non như lụa mà trước kia cu Hải canh chừng từng vết trứng nứt chờ chúng chào đời, giờ đã lớn và không bao giờ biết gáy. Chúng không gáy. Chúng không báo hiệu bình minh, như thể muốn Cúc chìm mãi mãi vào bóng đêm bất tận…
Người xây mộ nói với Cúc Dương chỉ cần nắng cho em ba ngày là em xây nhà ngay cho cháu. Cúc thường nằm im vểnh tai rình từng hạt gió lướt qua, liệu nó có đem mưa về không. Có tiếng lá rơi, có tiếng lá bị gió đuổi, Cúc hiểu là ngày mai trời sẽ chưa nắng ráo. Đêm mưa, Cúc nằm cứng đơ mắt trơ tráo lắng nghe tiếng nước rơi thình thịch trên lá chuối như rơi thẳng vào lòng mình, những giọt mưa nặng nề đè tàu lá chuối không cho ngước lên như hồn mình đang chìm tận đâu đâu, dưới lòng biển cả. Nước rơi lao xao trên mặt lá bàng, gõ lách tách vào khung cửa sổ sắt, ào ào xuống vũng nhỏ cạnh vườn lan, nước luồn qua mái ngói căn nhà nhỏ của cu Hải ngoài vườn, một dòng cô đơn lặng lẽ chảy xuống… Không ai cùng cảnh ngộ để hiểu nỗi lòng người mẹ mong trời nắng thế nào. Không ai bị mất con với hình thù gớm ghiếc để hiểu nỗi đau của người mẹ thế nào. Và Cúc cứ lâm râm lạy trời, cho nắng lên giùm con, cho cu Hải có cái nhà tươm tất. Sáng thức dậy nghe tiếng mưa lộp độp mái tôn căn chòi đựng linh tinh đồ làm vườn bên cạnh, Cúc thở dài kêu khẽ “Trời ơi”, bủn rủn. Chưa bao giờ trong đời thời tiết khiến người đàn bà này quan tâm đến thế. Một hôm trách Trời chán, Cúc xẵng giọng: “Tôi không thèm cầu xin ông nữa đâu, cứ mưa đi, mưa cho ngập hết cái đảo này đi tôi cũng cóc cần. Mưa cho trôi hết thế gian đi tôi cũng chẳng lo. Đúng là ông không có mắt”. Sáng nào may có chút nắng le lói, Cúc mừng rỡ bảo Hiền:
- Chỉ cần hai ngày nữa bà ạ, là thằng Hải sẽ có nhà.
- Bà cứ bình tĩnh, chuyện xây mộ chưa gấp gáp gì...
- Giỡn bà, nó chết tức tưởi hở hang tận xương tủy thì phải có cái nhà cho nó ấm áp chớ bà.
Hiền im.
Nhưng để xây được mộ, phải chờ mười chín ngày sau hôm chôn cất. Trời bắt đầu trong sáng, rồi nắng chan hòa và người xây mộ sẵn sàng vật dụng đồ nghề. Cúc lăng xăng như xây nhà mới, đề nghị thêm chỗ nọ bớt chỗ kia. Những ngày này nỗi buồn như nhường chỗ cho công việc bận bịu, Cúc quên than thở, chạy ra chạy vào lo cho thợ với hy vọng họ xây cất đàng hoàng. Thằng Hải thích như vầy, thằng Hải thích màu kia, thằng Hải cần cái đó… Nhưng rồi cũng qua nhanh. Ngôi mộ nhỏ bằng đá cẩm thạch màu xanh ngọc lục bảo, là màu cu Hải rất thích khi thấy lần đầu trong chuyến vào thăm đất liền. Trên tấm bia, khuôn mặt đẹp cu Hải nhìn mọi người mỉm cười, vẻ e dè ngỡ ngàng. Có lẽ nó hiểu số phận ngắn ngủi dành cho mình và ngại làm bố mẹ đau buồn. Cái nhìn nó như một lời xin lỗi, một lời trần tình, và muốn nói chính nó cũng chẳng hiểu tại sao. Người ta chất đầy lên mộ linh tinh thứ cho một bé trai, những thứ mà người nằm bên dưới không bao giờ cần đến nữa, nhưng biết đâu ở thế giới bên kia… Và thực tế là an lòng người mẹ thế giới bên này.
Rồi cũng đến lúc vợ chồng Tuấn Thúy và Cường Hiền phải ra về, làm việc. Với ngôi mộ tinh tươm hy vọng Cúc không bứt rứt nữa. Nhưng những ngày tiếp sau đó là một hoạt cảnh khác giữa vợ chồng Dương Cúc. Như chợt nhớ ra điều gì là lạ, Cúc bắt đầu bằng câu hỏi:
- À, mà sao anh đã giật thằng bé trong tay em rồi, lại để nó rớt ra?
Dương trợn mắt:
- Anh lại tính hỏi em như vậy đó. Đã đưa cho anh rồi, anh vừa ôm đến thì em giật mạnh lại rồi làm sao lại để nó rơi?
Hai người trố mắt nhìn nhau không tin là người kia không giật, và nếu tin nhau lại càng không thể giải thích tại sao. Nghe chuyện, Cường khuyên thôi hai ông bà đừng cãi nhau về điều đó nữa, dù tại làm sao thì cũng không cải sửa được gì, mọi chuyện đã an bài như thế rồi, ông bà nên tĩnh tâm lo cho linh hồn của nó.
Từ đó Cúc không ăn đồ biển nữa, nói chúng đã được nuôi dưỡng bằng một phần da thịt con mình. Rồi từ từ các món thịt cũng không bước được vào bếp gia đình này. Họ trở thành hai kẻ ăn chay trường, Cúc bắt đầu giống Dương, ít nói... Trong nhà chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc ngày đêm không mệt mỏi phân vân.