Theresa

THÁNH THÉRÉSA : ḷng vị tha và can đảm

    Ngày 19 tháng 10 năm 2003,  «Mẹ Thérésa» đă được Đức Giáo Hoàng Jean Paul II và toà thánh Vatican làm lễ tuyên phúc chính thức lên hàng các Thánh.

    Gốc người An-ba-ni (Albanie,Trung Đông), Mẹ Thérésa ra đời tại Skopje, thủ đô hiện thời của Cộng hoà Ma-xê-đoan (Macédoine) ngày 27 tháng 8 năm 1910 và mang tên Agnès Gonxha Bojaxhiu.

    Năm 18 tuổi,  các bà xơ ḍng Soeurs de Lorette gửi Agnès đi Calcutta (Ấn Độ), nơi có chi nhánh hoạt động của ḍng này. Tại đây bà chọn tên Thérésa (hay Térésa) để tưởng nhớ bà thánh Thérésa vùng Lisieux, miền Bắc nước Pháp. Bà dạy học trong hai chục năm trời rồi cuối cùng hoàn toàn xả thân cho dân những vùng nghèo đói nhất Calcutta. Năm 1948 nhận tư cách công dân Ấn Độ rồi năm sau bà thành lập Missionnaires de la Charité (Giáo Sĩ T́nh Thương) chỉ với hơn chục bà xơ, nay đă lên con số 4500, hoạt động trong hơn trăm quốc gia trên khắp thế giới. Các hoạt động của bà hữu hiệu và gây tiếng vang tới nỗi năm 1971, toà thánh Vatican trao cho bà giải Hoà B́nh Jean 23, năm sau Ấn Độ dành cho bà giải Nehru và năm 1979 bà nhận giải Balzan - về vai tṛ đă giúp đỡ kẻ nghèo hèn cùi hủi, có công với hoà b́nh và nối ṿng tay anh em cho mọi dân trên thế giới. Năm 1979 bà được giải Nobel Hoà b́nh.

    Không bao giờ dấu giếm đạo Thiên Chúa của ḿnh, cách bà xả thân cho dân cùng đinh và bịnh tật ở Calcutta nói riêng và dân những vùng bất hạnh nhất trên khắp thế giới nói chung, khiến dân Ấn Độ giáo cũng phải kính yêu. Sự hiện diện của bà là bản tuyên cáo ḷng tin và chứng nhân khuôn mặt thực Nhà Thờ, là người bạn thân thiết trung thành nhất của những kẻ nhỏ nhoi nghèo khó. Bà có bạn đủ mọi tôn giáo và không bao giờ áp đặt niềm tin đạo của ḿnh lên người khác, ḷng chân thật trong sáng của bà trong vấn đề này rất được ngưỡng mộ. Và v́ bà ra đời tại thủ đô Ma-xê-đoan nên dân tộc này sung sướng hănh diện làm cái nôi cho người được toàn thế giới trọng vọng - và dĩ nhiên với gốc gác An-ba-ni, bà là hiện thân vinh dự cho cả tín đồ Hồi giáo.

    H́nh ảnh bà xơ nhỏ nhắn yếu đuối trong chiếc sa ri trắng viền xanh đă gợi ḷng kính trọng khắp năm Châu dù có đạo Thiên Chúa hay không, đến nỗi theo truyền thống Vatican phải chờ 5 năm sau khi chết mới bắt đầu xem xét thủ tục cho lễ tuyên phúc, th́ đối với bà chỉ cần qua 2 năm. Trước khi làm lễ tuyên phúc phải có ít nhứt 2 nhân chứng công nhận đă được phép lạ từ người chết. Sau đó cũng phải có ít nhứt 2 nhân chứng nữa được phép lạ rồi mới làm lễ phong thánh - Dĩ nhiên phải là những phép lạ hiển nhiên, vững vàng không chối căi được, và phải trải qua rất nhiều giảo nghiệm nghiêm khắc. Phép lạ của Mẹ Thérésa đă được thể hiện nhiều, riêng trường hợp Monica Bishra (đàn bà người Ấn) với 40 000 trang chứng từ, chỉ những nhân vật quyền hành toà Vatican mới được biết. Cuộc đời của bà đă chứng minh bà là Thánh từ khi c̣n sống, đến nỗi Đức giáo hoàng Jean Paul II v́ quá ngưỡng mộ đă tuyên phúc và ghi tên bà lên danh sách hàng các Thánh trước hạn kỳ truyền thống mà không bị trở ngại nào dù từ phía những người thủ cựu. Trên thực tế trong quá khứ, thời chưa có máy h́nh, máy ghi âm... để ghi lại những phép lạ, nhiều khi chết đă cả trăm năm, hơn trăm năm mới được tuyên phúc, phong thánh.

    Ngày tuyên phúc, gần nửa triệu người đổ về toà thánh Vatican La Mă nh́n lên 6 màn h́nh khổng lồ trong các đường cạnh nhà thờ Thánh Pierre, v́ sân nhà thờ chỉ chứa được 50 000 người. Từ khắp nơi trên thế giới  nhiều người dù không có đạo vẫn đến tham dự  buổi lễ lịch sử long trọng dành cho vị nữ tu này. Ở Calcutta dưới trời mưa tầm tă, hàng ngàn con chiên Thiên Chuá và Ấn độ giáo, tu sĩ và học sinh tụ tập sáng chúa nhật 19 tháng 10 trong nhà nguyện nơi bà thường tới nguyện cầu, để cầu nguyện và tạ ơn bà. Trên mộ bà luôn luôn kết đầy hoa và người ngưỡng mộ đi ṿng quanh không dứt, trong đó có cả các Phật tăng Đài Loan. Hầu hết khắp nơi tại Ấn Độ đều tổ chức những buổi lễ, nhất là tại thủ đô Tân Đề Li. Rất ít dân Ấn theo đạo Thiên Chuá, nhưng v́ bà mang quốc tịch Ấn nên họ sung sướng hănh diện xem bà là Thánh của xứ sở Gandhi.

    Năm 1996 bà nhận tư cách công dân Mỹ. Ngày 5 tháng 9 năm 1997 bà bỏ cơi đời v́ bịnh tim - ngày mà Tổng thống Pháp Chirac đă nói "thế giới bớt đi t́nh thương, bớt ḷng thương cảm và bớt đi ánh sáng".

    Bà xơ Nirmala người Nê-pan, 69 tuổi đă được bầu khi Mẹ Thérésa c̣n sống, cai quản ḍng tu. Nhiều tu sĩ nhận xét rằng bà xơ này giỏi quản lư, giỏi tổ chức, nhưng không bao giờ ra đường đến những nơi nghèo hèn bẩn thỉu săn sóc người bịnh, rửa ráy người cùi như Mẹ Thérésa. Những người may mắn đă được Mẹ Thérésa giúp đỡ, bi quan cho rằng rồi đây trung tâm của các Giáo Sĩ T́nh Thương sẽ chẳng khác ǵ bất cứ trung tâm nhân đạo nào, rằng họ cũng sẽ chỉ săn sóc cho người Thiên Chúa giáo, trong khi Mẹ Thérésa săn sóc mà không cần biết người bịnh đạo ǵ. Và bà thấy trước cái ḿnh cần để cho, không đợi phải hỏi.

    Đối với bà, "người nghèo khó cho chúng ta nhiều hơn ta cho họ. Họ là những người rất mạnh, sống ngày qua ngày không có thức ăn. Họ không bao giờ nguyền rủa cũng không bao giờ phàn nàn. Ta không nên đối với họ bằng ḷng tội nghiệp hay trắc ẩn. Có nhiều điều chúng ta phải học từ họ". Bà thường nói "làm sao có thể nói yêu Chúa khi không thấy Chúa, nếu không yêu người bên cạnh mà ḿnh có thể sờ mó và sống với họ mỗi ngày?". Trong khi nhiều người làm việc để cải thiện cơ cấu xă hội, bà lưu tâm tới những người nghèo khó nhất của các người nghèo, trực tiếp và hữu hiệu. Cho người ta chiếc cần để câu cá là cần thiết, nhưng cũng phải có người cho họ con cá nhỏ để đủ sức cầm chiếc cần câu.

    Bà thường nói bà được Chúa gọi không phải để thành công, mà là để trung thành. Bà trung thành với Chúa, với ḷng yêu và hy sinh của Chúa đối với con chiên, nên nhiều người đă từng được bà giúp đỡ vẫn nh́n thấy chiếc áo trắng viền xanh trên đôi vai gầy bé ẩn hiện đâu kia ngoài con hẻm nhỏ…

Paris, Oct. 2003