TRÍCH ĐOẠN

Hãy học thương yêu

 

[…] Socrate cũng không tin vào huyền thoại của Aristophane, nhưng dẫu sao Ông vẫn giữ lại một khía cạnh chính: tình yêu đúng là sự ham muốn cái ta thiếu. Hơn nữa, chính vì lý do đó mà tình yêu không có tính thần thánh: vì thần linh thì chẳng cảm thấy thiếu thốn gì!  Socrate giải thích: «Cái mà ta không có, cái ta không là nó, cái mà ta thiếu: đấy là đối tượng của ham muốn và của tình yêu» (Bữa tiệc, 200e). Từ ghi nhận này, Triết gia sẽ nói về tình yêu bằng cách gợi lại một huyền thoại khác, huyền thoại về Ái Dục (Eros).

 Cần giữ lại gì trong diễn từ của Socrate về tình yêu? Rằng tình yêu nơi con người là một ham muốn suốt đời không thoả mãn, nhưng nó có thể tìm thấy an bình ở cuối một con đường tâm linh dài, trong sự chiêm ngưỡng huyền bí cái tuyệt đối. Ở đây, Socrate gặp lại điều mà sau này bao nhà huyền học Do Thái, Kitô hay Hồi giáo đều nói: tình yêu là một ham muốn Thượng Đế trong vô thức, và nó chỉ tìm được thư thái nơi Thượng Đế mà thôi. Ngay cả kẻ nghiện giới tính phóng túng nhất cũng tìm kiếm cái Thiện và cái Đẹp tột cùng, cũng đi tìm Thượng Đế mà không biết. Hắn chỉ nhầm đối tượng thôi. Bởi vì, mọi tình yêu và mọi ham muốn đều đơn giản phải tìm thấy đúng mục tiêu của mình. Ở đây, ta gặp lại giáo huấn của Chúa Jésus về tội lỗi, mà theo từ nguyên học Do Thái xưa có nghĩa là «nhầm mục tiêu», như ta đã thấy. Trong một phối cảnh như thế, thì như Socrate quả quyết, tình yêu là một đà đẩy, một động lực, nhưng nó không phải là đức hạnh ở mặt nào cả, bởi vì đức hạnh là vương miện, là một phẩm hạnh vững bền của tâm hồn. Tình yêu có thể đưa đến điều tốt đẹp nhất, cũng như điều tệ hại nhất. Người ta có thể hy sinh vì tình yêu, cũng có thể giết người vì tình yêu. Bằng tình yêu, ta có thể tự trói mình vào thứ làm ta đau khổ, cũng như vào thứ tốt đẹp nhất cho ta. Tự nó, tình yêu không phải là phẩm chất, cũng chẳng là khuyết tật, không phải là đức hạnh cũng chẳng là tội lỗi, không phải là cái thiện cũng chẳng là cái ác. Tình yêu là cái sức mạnh phổ quát mù quáng liên tục thôi thúc ta đi tìm cái mà chúng ta thiếu này, và nó cần phải được giáo dục, thuần hóa, điều khiển và kiềm chế.

Chúa Jésus không chối bỏ định nghĩa tình yêu ái dục này, nhưng Người cũng cho từ «tình yêu» một ý nghĩa hoàn toàn khác, và bằng cách đó, Người khiến nó thành đức tính tối cao của con người, trái với Socrate.

…………………..

Sáng sớm hôm Chúa Jésus đến sân trước của Đền Jérusalem để thuyết dạy đám đông, nhiều thầy giảng giáo lý và người sùng nghi thức đạo  bỗng xuất hiện. Những kẻ có địa vị tôn giáo và rất chú tâm đến việc tôn trọng Giáo Luật này đặt trước mặt Chúa Jésus một người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang, và nhắc lại rằng theo Giới Luật của Moïse, tội này phải được trừng trị bằng lệnh ném đá đến chết. Mục đích của họ là thử thách Chúa Jésus: họ tin rằng Người sẽ từ chối để người đàn bà này chết, và như vậy là thể hiện trước dân chúng rất ngoan đạo sự từ chối áp dụng Giới Luật Moïse đã ban bố. Thay vì trả lời, Chúa Jésus cúi xuống vẽ cái gì đó trên mặt đất. Không ai rõ Người viết gì, nhưng theo chúng ta biết thì đấy là những chữ duy nhất chưa bao giờ được viết từ tay Người. Rõ ràng là bằng sự cúi xuống này, Người tránh va chạm với cái nhìn nẩy lửa của kẻ muốn tranh luận. Để một lát im lặng trôi qua, Người ngước lên nói với họ: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Rồi luôn luôn tránh chạm trán, Người lại nhìn xuống và tiếp tục viết trên mặt đất. Những kẻ kết tội người đàn bà tội lỗi rút lui từng người một, «bắt đầu từ người cao tuổi nhất», sách Phúc Âm xác định, không thiếu hóm hỉnh.

Còn lại một mình với người đàn bà, lúc đó Chúa Jésus có thể đứng  lên. Người đã không cố tình làm nhục kẻ buộc tội bằng cách nhìn chòng chọc vào họ, Người ẩn nhẫn, thối lui, đặt họ trực diện với ý thức của mình. Chắc chắn đó cũng là phương cách hữu hiệu nhất để cứu cuộc đời người đàn bà bất hạnh này, mà từ sáng tinh mơ người ta đã truy tìm để lôi xềnh xệch từ giường tình nhân ra tận sân Đền Thánh, và chắc là trong tình trạng rất hở hang. Đứng vòng quanh họ, đám đông và đồ đệ của Người chứng kiến cảnh tượng này trong sự im lặng mà ta có thể tưởng tượng được cường độ bi thương. Chỉ lúc đó, Người mới nói với kẻ bị kết tội: «Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?». Cô ta nói: «Thưa ông, không có ai cả». Chúa Jésus bèn nói: «Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!» (Jean, 8, 1-11).

Như vậy, Chúa Jésus từ chối áp dụng hình phạt đã được Giới Luật dự kiến. Dĩ nhiên là Người nhận biết thực tế của tội lỗi, bởi vì Người khuyên cô ta đừng phạm nữa. Nhưng chắc chắn Người xét rằng hình phạt ấy là quá đáng, và cảm thấy lòng đầy trắc ẩn đối với người đàn bà này, cũng như đối với mọi kẻ tội lỗi Người gặp. Bằng động thái đã được ghi lại, Người chứng tỏ rằng sự tha thứ vượt lên trên Giới Luật, và nhất là nó vô cùng hữu hiệu để cứu chữa linh hồn khỏi sự mù quáng và yếu đuối của nó.

…………………

Bởi vì trái ngược với Socrate và Chúa Jésus, Đức Phật không tin vào sự hiện hữu của một Thượng đế tuyệt đối tốt, nguồn gốc của mọi điều thiện, nơi mà dục vọng có thể dẫn ta tới, buộc ta vào, vì hạnh phúc bao la của chính chúng ta. Như vậy, Ngài chỉ thấy trong tình yêu-dục vọng thứ ràng buộc tiết ra đau khổ, bởi vì nó là nguồn cội của nỗi bất mãn triền miên. Ngài cũng chẳng cổ xúy cho tình yêu-philia chút nào, bởi vì thứ tình bạn hỗ tương này cũng có thể dẫn đến bất hạnh. Bạn ta có thể không thương yêu ta nữa, hay có thể chết, và những chấn thương tâm thần này (sinh ra từ ái luyến) có thể đưa ta đến một đau khổ lớn lao. Như vậy, tất cả tình yêu-ràng buộc đều bị Đức Phật loại trừ.

Trong những điều kiện này, có thể còn tồn tại một hình thức yêu thương nào trong Phật giáo không? Hay là phải chấp nhận sống thờ ơ  với tha nhân để không bao giờ đau khổ? Vậy thì sự vô cảm sẽ có thể là đức tính tối cao chăng?

[…] Mặt khác, học thuyết Phật giáo cũng bác bỏ mạnh mẽ luật ăn miếng trả miếng, và đề xướng lòng thương yêu kẻ thù. Đức Phật đã dạy môn đồ Phagguna: «Này Phagguna, nếu có ai trước mặt ông lấy tay đánh, lấy đất ném, lấy gậy đập, lấy gươm đánh,.. Này Phagguna, ông phải từ bỏ những dục liên hệ đến thế tục, những tư duy liên hệ đến thế tục. Này Phagguna, ông phải học tập như sau: Mong rằng tâm của ta sẽ không bị biến nhiễm! Mong rằng ta sẽ không nói những lời ác ngữ! Mong rằng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận!» (Trung Bộ Kinh = Majjhima Nikaya, 21, 6). Điều này không vang vọng lại lời của Chúa Jésus sao? «Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa» (Luc, 6, 29). Nhưng ta có thể thấy là lòng từ bi của Đức Phật còn phổ quát hơn cả lòng thương người của Đức Kitô, bởi vì giáo huấn cứu độ của Ngài hướng đến mọi sinh linh. Về mặt đó, Ngài đi xa hơn Chúa Jésus và Socrate, hai vị này còn trụ ở chân trời coi con người là trung tâm.  Một trong các hậu quả từ tư tưởng của Đức Phật là sự tôn trọng sâu xa đối với thú vật và thiên nhiên trong toàn thể của nó. Sự tôn trọng thấm đẫm truyền thống Phật giáo này còn lâu mới được chia sẻ bởi truyền thống Tây phương Hy Lạp và Cơ Đốc-Do Thái, là các nơi mà lòng thương xót đối với nỗi đau thú vật hầu như không có.

Bị ảnh hưởng bởi học thuyết Đại Thừa, các nhà viết tiểu sử về Tôn sư kể rằng khi Ngài thiền định dưới cội Bồ đề, chợt kẻ chưa trở thành Đức Phật này thoáng nhớ một kỷ niệm thời thơ ấu; thuở ấy, Ngài nằm dưới bóng cây trong vườn vua cha, và quan sát các nông dân làm việc cực nhọc ngoài đồng, dưới cái nắng gay gắt xứ Ấn Độ. Chỉ là một đứa bé thôi, nhưng Ngài đã cảm thấy thương xót mãnh liệt, vừa mấy kẻ lao động làm việc nhọc nhằn, vừa bao côn trùng bị chết, cắt đứt, dẫm nát dưới sức nặng của chiếc cày. Lòng từ bi này được mô tả như một thứ tha giác sâu sắc đối với các sinh vật bị đời bạo hành, đối với những sinh vật đau khổ. Các nhà viết tiểu sử Đức Phật xác định rằng kỷ niệm này là khởi điểm của cuộc hành trình sẽ dẫn Ngài đến Giác Ngộ, và đến sự khám phá ra «tứ diệu đế». Họ cũng nói rằng suốt đời, Đức Phật động lòng trước đau khổ của mọi sinh linh, chứng tỏ Ngài có tha giác và từ tâm ngay cả đối với mầm cỏ mảnh khảnh nhất…