QUÊN
Năm lên mười, tôi gặp người đàn ông ấy lần đầu.
Buổi chiều mẹ thổi cơm, tôi ngồi trông hàng - cửa hàng xén linh tinh triệu thứ mà tánh hay quên, mẹ lại nhớ giá từng chi tiết - người đàn ông ấy xuất hiện như phép mầu, gấu quần và mũi giày tây xa lạ với khu ngoại ô nằm vào vùng thị giác của tôi hệt những tờ quảng cáo.
Ông ấy không đến để mua cái gì, chỉ nhìn tôi chằm chằm, áo sơ mi xanh phẳng phiu, mắt chớp lia hỏi đây có phải nhà bà Thảo không. Tôi e dè trước giọng rền như chuông, quan sát chưa dám gật đầu. Biết đâu người ta chẳng đến bắt như chuyện xảy ra tháng trước ở nhà bà Chín. Chúng tôi nhìn nhau, đo lường ánh mắt người lớn và trẻ con, ngờ vực, dọ dẫm. Ông dịu hơn :
- Cho bác hỏi thăm, có phải nhà bà Thảo đây không? là mẹ cháu phải không?
Chưa trả lời đã thêm câu hỏi khác. Ấy vậy mà lần này tôi gật thật nhanh. Mẹ là bà Thảo, ai nữa được. Thường người ta mang tên đứa con đầu lòng như bà Thạnh mẹ anh Thạnh, bà Ngọ mẹ chị Ngọ. Nhưng mẹ vẫn giữ tên thời con gái. Mãi về sau này, tôi nghĩ biết đâu đó chẳng là một cách vô tình hay cố ý dành cho ai một lối tìm về.
- Mẹ... mẹ cháu có nhà không? cho bác gặp được không?
Tôi quay lưng tính ra sau bếp, mẹ đã đứng đó rồi, trong bóng mờ mờ căn phòng người ta thường gọi là phòng khách, với chúng tôi kiêm luôn phòng ăn, phòng thờ, có chõng tre nhỏ tôi dùng làm bàn học. Mẹ chẳng còn là mẹ nữa, mắt mở to sững sờ, miệng hé mở, trong bóng sẫm cũng hình dung da mặt tái đi. Tôi điếng. Đúng là người ta đến bắt mẹ đây. Bật khỏi chiếc ghế nhựa đã nứt mà làn da non nớt thường bị kẹp rất đau, tôi nhào đến ghì mẹ. Tỉnh lại, mẹ bấu chặt vai tôi, nghèn nghẹn :
- Con... đi chơi được rồi. Mẹ nói chuyện với... bác đây một chút.
Mẹ đẩy.Tôi níu. Cuối cùng tôi ra hiên cố vễnh tai thu thập mọi lời, tiếng được tiếng chăng vì họ nói rất ít, giọng thấp. Tôi lăng xăng vô ra làm như tìm quyển vở, để nhìn, mà họ có vẻ rất kín đáo. Chỉ rõ ràng là không ai đến bắt mẹ. Đủ rồi. Một lúc lâu trời sụp tối ông ấy ra về, lại nhìn tôi, bối rối nói bác đi đây. Lúc đó đang vẽ cái hình vuông, tôi phi ra sân thước kẻ trên tay, kiểu cô Ngọc Cầm đóng vai ông tướng tay kiếm tay đao xông trận mà dạo đoàn hát ở đây, chiều nào đi học về tôi cũng vào chùa chỗ diễn tuồng, trân trọng cầm gương cho đào kép điểm trang. Hồi đó được cầm chiếc gương, không cục cựa vài tiếng đồng hồ cho các cô chú vẽ lông mày, bôi son trét phấn, là niềm sung sướng vô biên. Bây giờ tôi chỉ lạ lẫm nhìn theo chiếc sơ mi xanh lẫn vào bóng tối ở đoạn đường mọc nhiều cây keo. Đêm đó trên chiếc chõng tre lớn trong buồng, tôi giật mình giữa chừng nghe mẹ rưng rức, người rung lên mà kìm lại. Tôi muốn ôm mẹ hỏi tại sao, nhưng linh cảm tốt nhất nên giả vờ say ngủ. Người lớn vẫn thường có nhiều điều quái dị. Gì cũng giấu con cái mà không muốn con cái giấu mình chuyện gì.
Bảy năm sau mẹ mất. Trong chiếc rương gỗ cũ kỹ mà khi gần hấp hối, mẹ dúi chìa khoá vào tay tôi với tất cả sự cẩn trọng, đã mở cửa cho tôi nhìn thấy nhiều điều. Về cái tên của mình. Về người đàn ông sơ mi xanh. Về cuộc đời của mẹ...
Tôi đã xếp trả vào rương mấy món như sắp lại linh hồn, bình tĩnh, ngăn nắp, chẳng khác những thứ phù phiếm mình chưa được phép sống qua và cố quên là đang cô độc, quên chiếc áo sơ mi xanh lại xuất hiện ở hiên nhà khi hàng xóm lục tục ra về sau tang lễ. Ông ốm và già đi nhiều so với bảy năm về trước. Hàm râu mép, món trang điểm duy nhất của đàn ông, lưa thưa. Tóc thì muối nhiều hơn tiêu và da đầu đã lộ. Một hình ảnh tiều tụy. Trên đồi, đứng xa xa để ông tự do rầm rì tâm sự, tay tôi không ngừng vặt những chiếc lá vô tội ném xuống bãi cỏ hoang như xé rách từng chút bí mật đã che giấu đời mình. Lúc đó tôi nhìn ông tò mò, tưởng tượng âm hưởng tiếng Cha hay Ba có thể sẽ gọi khiến tôi bồn chồn. Cảm giác là lạ, tôi thấy dỗi hơn thương. Cuối cùng thì tấm hình trên bàn thờ và câu trả lời “Cha con chết rồi, đừng hỏi nữa” thuở còn bé xiú vẫn cho tôi cảm giác bất an và thèm muốn các bạn có cha còn sống, là một cách tìm quên.
Khi về nhà, ông lắp bắp Ba... bác muốn... Sống với mẹ tôi không quen những bất ngờ, thay đổi. Tôi lắc đầu lia mà cũng chẳng hiểu lắm ý nghĩa của những cái lắc đầu. Yên lặng nhìn áo tang sổ gấu, nhìn chân trong dép nhựa như thấy năm ngón lần đầu có móng. Nghĩ miên man đến mẹ, đến tiếng rưng rức năm tôi thấy chiếc sơ mi xanh ấy lần đầu, hay nhiều lần mẹ bất chợt thẫn thờ xa vắng. Bây giờ hiểu mẹ luôn luôn nhớ.
Khi cha ra về, căn nhà vốn nhỏ xíu cho hai mẹ con bỗng thênh thang trống trải dị thường. Không gì khác ngoài ánh sáng lập loè đầu nhang trên bàn thờ và chút khói nhạt vất vưởng lao chao là sinh động. Tôi thì cuộn mình trong bóng tối. Ngóc ngách căn nhà sâu thẵm bí hiểm hơn, cột kèo sừng sững dữ tợn hơn, mái tranh cao hẳn lên và bóng đêm mênh mang đe doạ... Lời đề nghị của cha cũng chẳng ảnh hưởng gì, tôi lõm bõm trong nỗi đau của mình, là mẹ nằm ngoài kia trên đồi bên cạnh một ít láng giềng và tôi một mình trên chiếc chõng tre bỗng dưng chứa được cả chục chiếc lưng. Tôi vục mặt hít hà chiếc áo mẹ bận ngày cuối. Người ta tắm táp thay cho mẹ chiếc áo chỉ bận vài ba cái tết hãy còn mới nhưng đã có vết khâu vì chuột nhấm. Và tôi bắt đầu sợ đủ thứ, tiếng côn trùng ngoài kia hay tiếng muỗi trong này. Có mẹ sao mình ngông nghênh to lớn quá...
Đêm rồi cũng qua đi và mặt trời lại đến. Trong ánh sáng ngày, mọi việc bớt phần bi thảm. Tôi ngày ngày lộc cộc xe đạp đến trường, miệt mài bài vở thi tú tài, để yên mẹ trên bàn thờ, trong huyệt mộ. Bây giờ tôi bận bịu hơn xưa. Mẹ nằm trên đồi nhìn xuống mấy khu nhà, dắt khách đến mua hàng, về nhà là tôi tíu tít bán, mua, bỗng dưng rành rẽ, già dặn. Tự nhủ mình đủ sống, đủ lo thân vào đại học, chưa muốn nhờ vả người cha mười bảy năm sau bỗng dưng đề nghị cưu mang cùng với bốn đứa con của bà vợ chính thức mà nghe đâu thuộc loại chanh chua. Là ông Vạn nói vậy khi gặp bà ở văn phòng toà tỉnh. Bà làm gì đó, chắc to. Có lần đi ngang, tình cờ thấy một bà từ cổng bước ra đúng như ông Vạn tả: tóc uốn ngắn, son phấn, bận bộ áo dài đen. Trông bệ vệ sang trọng. Tôi cụp mắt xuống, nghĩ đến chiếc bà ba muôn đời bạc màu của mẹ...
Ngày tháng vừa nhẩn nha vừa nhanh. Nhẩn nha là nỗi bàng hoàng mất mẹ vẫn nguyên vẹn. Tôi vẫn bỡ ngỡ mỗi lần về nhà cửa khoá, lặng lẽ lục đục một mình nếu không có khách mua gì. Hình trên bàn thờ không nhét nổi cảm giác “Mẹ vẫn bên cạnh” như các ông bà văn sĩ ba hoa. Tôi chỉ một mình, trong nhà, ngoài đời... Và chiếc thuyền con bềnh bồng giữa đại dương bát ngát với ngày tháng qua nhanh đẩy tôi tới bến. Ở đó có cha chờ sẵn. Giữ lời không đến, nhưng vừa có kết quả là hôm sau cha lịch kịch món quà. Về sau tôi tiếc phải chi có nó từ lâu, trước khi mẹ mất, đã ghi được hình ảnh mẹ rồi. Vậy mà lúc đó tôi không thoải mái khi nghĩ một món quà như vậy cha có phải giấu vợ không. Ý nghĩ phải giấu bà ấy khiến tôi tự ái. Hoặc bà ấy biết thì có nghĩ là tôi vòi vĩnh không ? Người đàn bà tóc quăn bệ vệ sang trọng đã bước vào nhà tôi một sáng chúa nhật hỏi chuyện lung tung, cuối cùng phán giọng bề trên Sống đơn độc phải ráng giữ mình, đừng để lỡ lầm như mẹ cháu”. Tôi quắc mắt rồi chợt cố lờ vì tội nghiệp cha lúng túng quay mặt ra đường như thể tiếng còi xe gắn máy vừa xẹt ngang làm nhức óc.
Chúng tôi lên đồi.
Trời chiều yên ả mát dịu, chúng tôi thảnh thơi dành thì giờ cho nhau. Mùi hương và chút khói nhạt uốn éo bay đến quấn hai cha con. Chắc là mẹ. Gió rất nhẹ như hơi thở đàn bà. Rướn người nhìn xuống làng tránh giây phút thân tình cha con vì tự nhiên tôi đâm gượng gạo, chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với cha. Nếu cha cũng có vẻ nghèo như chúng tôi, hẳn đã khác. Và nếu tôi cởi mở vồn vã chắc sẽ dễ chịu cho cha hơn. Đã nhiều đêm tôi suy nghĩ đến cha, đến nỗi ao ước thuở xưa mỗi lần thấy bạn sợ bị cha đánh. Tôi thì chẳng ai đánh, mẹ lúc nào cũng buồn ngọt ngào, cách nói nhỏ nhẹ ít lời của gái nhà nghèo là điềm truân chuyên yểu mệnh.
- Ba đã tính rồi, và dì con cũng bằng lòng, con sẽ về trên tỉnh ở với ba và các em.
À các em. Bốn đứa, hai trai hai gái. Thì tôi lẻ rồi. Tôi sẽ làm gì trong căn nhà mà ông Vạn nói là thênh thang nhiều cửa sổ với vườn tược đầy hoa. Tôi sẽ làm gì trong một gia đình có nếp sống an lành sung mãn.
- Con nghĩ sao ?
Tôi chợt nhìn cha như hôm thấy lần đầu. Người ta không đến bắt tôi đi chứ?
- Tại sao con phải lên tỉnh?
- Ờ thì... con vào đại học mà.
- Con có thể ở đây và vào đại học.
- Xa xôi quá.
- Con đi xe đạp quen rồi.
Nếu chỉ vì ngại xa cho tôi thì..., à cám ơn cha đã không nói “cảm thấy có trách nhiệm”. Một phút hứng tình của đàn ông và một phút lỡ lòng của đàn bà, việc gì bắt đàn ông lấy trách nhiệm. Cha dán mắt vào lùm bụi dại như tìm mẹ hay ký ức nằm trong đó, tâm sự:
- Con... con biết không, hồi đó ba mẹ đều còn trẻ, sôi nổi hời hợt. Gia đình bắt ba sang Pháp du học rất bất ngờ, mọi việc đã sắp đặt mà giấu, khi ba biết thì một tuần sau là lên máy bay, bước ra khỏi nhà là có người đi kèm. Ông bà nội cố ý chia rẻ ba mẹ...
- Vì sao? Vì mẹ nghèo chớ gì?
Tôi cướp lời hơi chua ngoa khiến cha bỡ ngỡ.
- Ơ... một phần. Một phần là muốn ba học cao lên nữa. Hum, ba có viết thư nhiều lần về cho mẹ mà không thấy trả lời. Mãi khi bà nội mất, là năm ba đến nhà tìm mẹ con lần đầu đó, tình cờ tìm giấy tờ ba mới thấy mọi thư từ thư ba mẹ gửi cho nhau đều nằm nhà ông bà nội. Ba suy nghĩ và hiểu ra là chắc ông bà nội dặn người đưa thư. Ông bà nội là người thế lực mà.
Tôi đứng bật lên. Người thế lực luôn tự cho phép mình làm điều trái phép, điều cấm kỵ, điều gây tai hại cho người khác. Ba kéo nhẹ tay tôi:
- Con ngồi xuống. Ba biết nghe vậy thì con giận ông bà nội, nhưng người già mà con, họ chỉ nghĩ đến gia đình họ thôi. Hum, kể cả thư mẹ con báo tin mang bầu, cũng nằm trong tay ông bà nội.
- Như vậy là ác, là xấu xa.
- Ừ, trong nghĩa nào đó thì vậy.
- Còn nghĩa nào khác nữa sao... ba?
Cha lúng túng tránh ánh mắt soi mói cáu bẵn của tôi, đám mây bồng bềnh trên kính. Tôi nhìn xuống đám cỏ bầm dập dưới chân. Cái yếu luôn luôn bị đè bẹp. Khuôn mặt cha teo tóp và ánh mắt mệt mỏi khiến tôi chột dạ. Thời gian tàn phá nhanh quá, cha suy sụp hơn hôm đám tang mẹ, râu tóc nhường nhiều chỗ cho da. Tôi muốn nhìn cha dịu dàng, hay nắm tay, hay làm cái gì đó chẳng biết, trừ cay cú. Chỉ vậy thôi vẫn không được. Tình cảm cha con đối với tôi vẫn chỉ là ý niệm. Đào xới mãi mà ký ức thuở xưa thèm có cha như thế nào cứ trôi tuột. Rốt cuộc chính mình mới là kẻ đáng thương.
- Con... con còn quá trẻ để hiểu những chuyện của người lớn. Họ làm một số chuyện mà nghĩ là hay, là đúng. Và cái chính là ai cũng chỉ muốn tốt cho gia đình mình...
- Còn gia đình người khác thì coi như không có, là cái có thể ném đi.
Bây giờ thì cha nhìn tôi, sâu vào mắt, chưng hửng. Chắc cha nghĩ tôi đanh đá. Mà những lời đó cứ thản nhiên tuôn ra, thề độc là tôi không cố ý.
- Ba biết con bực mình, nhưng cố gắng hiểu với tấm lòng... vô tư hơn một chút. Ba thương mẹ con thật lòng, đó là cái chính của ba. Phần còn lại thì ngoài ý muốn. Đó, ba đi du học vội vàng. Sau này mới biết là khi mẹ gửi thư báo có thai, cô Hai là chị của ba, mới gửi thư nói là mẹ con có chồng. Bây giờ cái gì cũng nhanh rồi, chớ hồi đó mọi phương tiện chưa hoàn chỉnh như bây giờ, cái gì cũng lâu ly xa lắc...
Lâu ly xa lắc. Những giấc mơ bềnh bồng. Tôi chạy mãi tìm mẹ bên kia sông, con sông nhỏ uốn quanh làng ngoại, nước ở đâu dâng tràn trề bờ bãi, gió ở đâu tát rạp ngọn dừa, trời đổ thêm nước xuống, mẹ chạy bên kia bờ ướt đẫm tóc dán chặt vào da đầu như trùm miếng vải đen chẳng còn mặt mũi. Tôi cứ chạy bên này khàn giọng gọi mà trong thâm tâm thắc mắc có phải mẹ không. Lâu ly xa lắc. Cuối cùng đất trời trả lại căn buồng nhỏ hẩm hiu với chiếc chõng tre khô khốc khi tôi hét nhìn mẹ ngã, nước cuốn phăng phăng. Hoặc tôi gặp mẹ ở chùa, chiếc áo lam dài cuống quíu bỏ đi khi tôi gọi mẹ, những bông hoa trong tay bay tản mạn khắp chiếc sân gạch màu ngói mới. Và tiếng chuông, tiếng chuông như điệu nhạc trời thanh thoát tận đâu đâu vang đến giữ chân tôi lại, nhìn quanh quất bàng hoàng không tìm thấy chiếc áo lam dài phe phất nữa. Rồi cũng tiếng chuông ấy đuổi tôi ra khỏi vườn chùa, chiếc cổng gỗ khép lại sau lưng hàn kín những bí mật bên kia thế giới. Tôi vừa bước đi vừa khóc, nước mắt mênh mông thành con sông nhỏ. Chiếc thuyền con từ hư vô trờ tới chở tôi về ngôi nhà lạ hoắc khiến tôi bừng tỉnh giữa khuya, mặt còn ướt. Lần khác mẹ tinh tươm trong bộ quần áo màu cà nhạt chưa bao giờ thấy, tươi trẻ có phần ủy mị, mỉm cười trao cho tôi tờ giấy khai sinh. Đọc tên mình có cha khuyết tật. Bây giờ chợt hiểu mẹ đã gửi thông điệp cho biết rằng cái khuyết tật của cha là không tự định đoạt được gì.
- Và ba tin ngay, bỏ mẹ?
- Hum, ba buồn phát bịnh, đòi về, nhưng dĩ nhiên là ông bà nội không cho. Ba lại gửi thư về trách mẹ con phụ bạc... Bây giờ nghĩ tới mấy chuyện đó ba khổ tâm quá.
Tôi đứng lên tới mộ đốt thêm nén nhang. Mẹ trên tấm bia lung linh ánh mắt. Ba mươi bảy tuổi là hưởng dương, là yểu mạng, là chán đời quá sớm, là bỏ con... Ba khổ tâm có bằng mẹ không. Cha đến bên cạnh:
- Hôm khám phá xấp thư trong tủ bà nội, ba vội vàng đi tìm mẹ con ngay, mới biết là mẹ vẫn chưa có chồng khi bỏ làng. Người ta chỉ hai ba chỗ đều sai. Bất cứ chỗ nào ba cũng đi hỏi thăm, cuối cùng ba hiểu mẹ tới đây là để không ai biết là con không có cha...
- Rồi làm sao ba tìm ra?
- Ba tới các trường, hỏi có học trò nào cha mẹ neo đơn thì ba cấp học bổng, cốt tìm tên mẹ. Khi thấy tên mẹ trên hồ sơ trường đề nghị cấp học bổng và con có cha chết trận, ba nghi rồi. Cái tên của con làm ba đau ruột quá... Vậy chồng mẹ là người trên bàn thờ đó hả con?
Tôi thở dài. Thương mẹ bóp óc kiếm ra nhiều trò che mắt thế gian.
- Không, đó là đứa cháu xa trong họ của mẹ, con gọi bằng anh, con chỉ mới biết khi mẹ mất, giấy tờ nằm trong rương.
Bao năm tôi đã đốt nhang mỗi chiều cho người anh bà con chưa bao giờ gặp, trân trọng vái van. Đinh ninh và hãnh diện là cha mình đã hy sinh cho tổ quốc. Trận nào? Mẹ ậm ừ. Nhưng một người đã gửi xương ở chiến trường thì chẳng ai đào bới. Cũng không nỡ chạm vào nỗi đau người còn lại. Tấm hình anh bận đồ lính, mặt non choẹt. Những lúc ấy có khi mẹ nhìn tôi thật lâu nhưng chẳng nói gì. Cửa sổ linh hồn mẹ khoá phía bên trong.
Cha con im lặng. Khoảng cách không gian bắt đầu thâu hẹp lại, mùi nhang khói mang hơi hướng cảm thông. Chúng tôi làm thành gia đình nhỏ, vợ chồng con cái nằm ngồi trên đồi yên tĩnh kể chuyện đời xưa.
- Đặt tên con như vậy thì chắc chắn là mẹ hận ba lắm...
- Con chưa bao giờ nghe mẹ nói gì.
- Ừ, mẹ hiền. Bởi vậy ba thương mẹ nhiều lắm.
Hiền. Mẹ hiền cha nhu nhược (mà giọng lại vang rền như nhà tướng). Để rồi trong giây phút mà mọi thứ đều rộn ràng hưng phấn chỉ có sự cẩn trọng gìn giữ đức hạnh đàn bà là mềm nhũn, đủ yếu tố để tạo một đứa con khập khiễng mồ côi.
- Lần gặp lại mẹ, ba đã đề nghị cho ba chuộc lỗi lầm, nhưng mẹ cấm ba không được lui tới nữa. Bây giờ thì ba mong con chấp nhận.
- Chuyện gì hả ba?
- Lo cho con đến nơi đến chốn như con muốn. Trước hết ba muốn đưa con lên tỉnh thăm dì và các em, cho quen.
Tới đâu gọi là nơi chốn. Và tôi chưa biết mình muốn cái gì.
- Từ từ đi ba, con sẽ đi thăm khi tinh thần sẵn sàng.
... Bây giờ thì tôi ngồi trước mặt luật sư và gia đình cha. Khoảng cách giữa chúng tôi hầu như không còn nữa. Mỗi lần tôi như khất sư trầm ngâm trước chiếc gà men hay bữa cơm với cả gia đình, nghĩ là dù trong tưởng tượng mẹ cũng không biết trên đời có những món này, luôn nghe lời khích lệ ngọt ngào ăn đi con, còn có sức mà chăm nom ba chứ; hoặc, bữa nay em thay phiên, con phải nằm nhà nghỉ ngơi - khiến tôi tin đừng để lỡ lầm như mẹ... cũng là lời khuyên chân tình, mà vụng. Từ “con” chắc chắn đến vào dịp cha nằm bịnh viện, chẳng nhớ ngày nào. Nhưng không muốn thằng em thay thế, tôi muốn tận lực với người vừa cảm thấy tình cảm nồng nàn thì đã đau sắp mất. Nhiều khi xúc động chồm sát để nghe giọng chuông giờ đã vỡ vụn, líu quýu kỷ niệm về mẹ, một người mẹ tôi gặp lần đầu. Cha đã có một người tình trẻ trung vui vẻ yêu kiều. Tôi chỉ có người mẹ buồn buồn xa xôi lơ đãng. Tình yêu cha đã làm mẹ sống và chết... Để cuối cùng mẹ ngồi chung với đứa cháu nào xa lơ lắc mà ai cũng tưởng ngồi với chồng, trong khi chồng ngồi một mình nơi khác... Đoàn hát cô Ngọc Cầm dọn đi, tôi khóc, mẹ đùa Cô ơi cô dẫn nó theo với... Tôi vẫn còn ở lại. Một mình.
Ông luật sư trẻ nhìn tôi qua làn kính cận, ngạc nhiên lẫn cảm phục. Vợ cha nhấn mạnh :
- Đó là ý muốn của ba, con không thể từ chối, con không có quyền từ chối.
Nhưng tôi vẫn tự cho mình có quyền từ chối. Món thừa kế khổng lồ với một con người quen dè xẻn từng xu có thể đốt cháy mười ngón tay tràn trề sức sống và để lại đống tro cho lòng cố vươn lên từ kham khó. Mẹ vẫn nhắc như đĩa hát rè là đừng trông chờ vào ai cả, phải tự lo cho mình. Bỏ làng đi với bào thai trong bụng thì mẹ thừa khả năng hiểu thế nào là phải tự lo. Đó lời dạy duy nhất về cuộc đời, chẳng nghe mẹ bảo “đừng bao giờ tin bọn đàn ông”. Không nhắc đến cũng là cách cố lội ngược con đường mà lòng vẫn dẫm chân vào. Cuối cùng ông luật sư nhẹ nhàng :
- Vậy thì cô viết quyết định đó ra đây, viết tay.
Tôi để vợ của cha quản lý số tài sản ấy, có thể lấy dùng cho các em bất cứ lúc nào. Luật sư đề nghị thêm câu “Với lý do chính đáng và có bằng chứng”. Rồi, chỉ suýt ngậm đầu cây viết, tôi nắn nót viết đầy đủ họ tên sau chữ ký: Nguyễn Thị Quên.
MIÊNG
Paris, mars 2012