Hóa ra Đào Nương, cô bé ca nhi bị giặc hiếp trên đường ra ải Phá Lũy và sau trở thành vợ Phi Bảo, cũng là người họ Đào ở Đào Xá. Khi Bảo kể cho cha nghe câu chuyện xưa, Phi Khanh thở dài bảo ‘‘...con hạ tay dao không cứu cô ta, một phần v́ cha. Vậy, cả cha con ḿnh đều can nhiệm. Nhưng tại sao giờ con nói với cha’’. Bảo thưa ‘‘ V́ bị ám ảnh. H́nh như nếu không theo cha để phụng dưỡng, có lẽ con đă đưa cô ta về xuôi...’’. Khanh lại dặn ‘‘ ...đâu đă muộn. Con đi t́m cô ta đi. Rồi một ngày nào đó con đưa cô ta về. Chỉ thế, con mới nên người. Đi, thôi đi ngay đi...’’. Sau đó mấy hôm, Bảo ḍ t́m và lên đường. Khi ấy Đào Nương ở với người chị đă lấy chồng. Gặp Bảo, Đào Nương sầm mặt xuống, đi vào không chịu tiếp. Bảo ngồi ĺ ở cửa suốt ba hôm, rút cục người chị vào kể lại cái hoàn cảnh chàng theo hầu cha trên đường đi đày, không thể động tay động chân làm ǵ được. Đào Nương chịu gặp Bảo, nhưng thấy mặt là ̣a lên khóc. Nàng nức nở hỏi ‘‘... Đến đây làm ǵ ? ’’. Bảo đáp, đă xin với cha cho chàng cưới Đào Nương làm vợ. Đào Nương lắc đầu ‘‘ Không. Em có c̣n trinh tiết ǵ mà lấy ! ’’. Bảo ứa nước mắt, nói chữ trinh kia cũng có năm bảy đường.
Ngày về đến Nhị Khê, Bảo và Đào Nương chỉ thấy có điêu tàn. Nhà cửa, ruộng đồng ngơ ngác. Hàng dân phiêu dạt đến độ trên những cánh đồng sũng nước đám c̣ trắng lênh khênh đi lại như chỗ không người. Họ hàng nhà Bảo kể lại chuyện Viễn ám toán Thượng Thư Hoàng Phúc và khuyên nên đi ngay. Đào Nương đ̣i về Đào Xá. Khi ấy, cái chuyện Đào Nhi dùng trâm đâm Hoàng Phúc đă xảy ra. Trong thôn, không c̣n ai dám hát, đám ca nhi tứ tán. Ông chú Đào Nương, tên Đào Phương, dân làng gọi là Đào lăo, mắt đă ḷa. Lăo kiếm ăn bằng cách bắt ếch nhái, bữa đói bữa no, sống vạ vật như thú hoang. Bảo và Đào Nương đưa ông cùng đi về Thanh Hóa dịp đó.
Dự định trồng chè như Bảo đă kể với Trăi từng bước thành h́nh. Và thành công hơn mức tính toán. Chỉ đến năm thứ hai, Bảo và Đào Nương đă qui tụ được gần trăm nóc gia quanh hai cái đồi chè ở tả ngạn sông Lam. Nhờ biết tiếng Tàu, Đào Nương giao dịch thẳng với đám quan nhà Minh, thuế đóng chỉ độ một phần ba tiền bán chè, đường kinh doanh tương đối thuận lợi. Đến năm thứ ba th́ khác. Đám sai nha cho người vào đếm từng gốc chè, ước lượng giá bán rồi đ̣i thu đến hai phần ba. Bảo bàn với dân trại chè rút sâu vào mé biên giới Lăo Qua, nhưng việc chưa ngă ngũ. Đám tráng niên t́m cách giấu một phần lượng chè hái được trong rừng, có kẻ sửa soạn giáo mác. Việc sinh nhai ngày một khó, đă có người chán bỏ đi, số c̣n lại nhẫn nhục chịu đựng. Ít lâu sau, nghĩa quân Lam Sơn liên lạc với Bảo, đề nghị bảo vệ trại chè chống sưu thuế nhà Minh. Năm thứ tư, sai nha và đám lính Tây đô bị nghĩa quân chặn đánh khi vượt Mường Thôi đi vào vùng sông Lam. Bảo biết t́nh thế, xin với nghĩa quân cho lập một đội tự vệ, và đóng nửa lượng chè hái mỗi năm góp vào việc đại sự.
Đứng sau hẳn một lằn ranh bạn - thù, người cả trại chè phập phồng, trừ Đào Nương. Trái với cách nghĩ thường t́nh, Đào Nương phấn chấn ra mặt. Cùng với Đào lăo, Đào Nương chế biến hát giặm dân gian thành những thể điệu có tính thời sự. Tiếng giặm có nghĩa là điền vào một chỗ thiếu, và hát giặm thường gồm những câu năm chữ, vần ở cuối câu, cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại láy cả ư lẫn lời. Bài sau được hàng dân hai vùng Nghệ Tĩnh hàng trăm năm sau cũng c̣n người hát :
Trời chưa phong quang
Giặc Ngô đó, trời chưa phong quang
Em đánh tiếng thưa sang
Trời chưa mở rộng phong quang
Th́ đợi chi hỡi chàng
Mà c̣n ở lại đây
Mà c̣n ngồi bó tay
T́nh đó với nghĩa đây
Giống như đọ nước đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Thu chưa về, đông tới
C̣n bóng giặc, chim bay
C̣n bóng giặc, chim cũng phải bay
Bớ chàng, chàng có hay ?
*
Nhận được tin Đạo Khiêm báo về Mường Thôi, Hăn sốt ruột sai người đi thẳng vào trại chè liên lạc với Phi Bảo. Nghe xong, Bảo vội vă thu xếp lên đường vào Trường Yên. Hai ngày sau, Bảo vào chùa Thiên Chính. Đạo Khiêm buồn bă lắc đầu :
- Bần tăng không hiểu... Cái buổi tối hôm ấy, th́nh ĺnh đường huynh ngă vật xuống, tính mạng tưởng như tuyệt...
Không đợi Đạo Khiêm dứt lời, Bảo ngắt :
- Xin thày cho vào xem sao...
Khiêm niệm A di đà, đi trước. Vào trái sau ở mé Đông, Khiêm lần tràng hạt chậm răi bước. Một tiểu đồng tiến lên mở cửa. Lọt sáng bên ngoài ùa vào, yếu ớt phớt lên vách đất một giải lờ mờ hư ảnh. Theo sau Đạo Khiêm, Bảo đến cạnh một chiếc giường đơn. Nh́n xuống, Bảo quặn ḷng. Trăi nằm thiêm thiếp, mắt hơm sâu, nhắm nghiền, hai g̣ má cao gồ lên như hai trái núi. Bảo ngồi xuống, tay nắm lấy tay Trăi. Bàn tay xương xẩu lạnh ngắt bỗng run nhẹ lên. Nh́n ngực Trăi phập phồng thoi thóp, Bảo khẽ lay gọi. Trăi nhếch mắt, gắng gượng mở ra, rồi lại khép lại. Đạo Khiêm nhẹ kéo tay Bảo. Khi hai người ra đến ngoài sân, Khiêm bảo :
- Đường huynh c̣n yếu lắm, nhưng không mệnh hệ nào !
Lúc đó, Bảo xin Khiêm kể lại sự t́nh. Trước khi Lư Tử Cấu dứt lời về cái duyên vượt được u mê qua lần gặp một người đàn bà điên ở sông Cầu, bỗng nhiên Trăi chúi ngă từ mé vực, nhưng áo móc vào một bụi cây, may chưa rơi xuống. Người nhà chùa đổ ra cứu Trăi lên. Trăi từ lúc đó hôn mê. Đợi Trăi hoàn hồn, Đạo Khiêm hỏi chuyện. Trăi á khẩu, không đáp được. Chàng chỉ nh́n, cái nh́n đă mất hẳn thần triù. Đạo Khiêm thở ra :
- Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát ! Cái nghiệp. Cũng từ cái nghiệp mà ra. Trong cơi huyền cơ này bần tăng chẳng làm ǵ được !
Phi Bảo bặm môi lắc đầu. Tối hôm đó, Bảo ra đứng nơi ḥn đá tảng cḥi ra bờ vực. Không trăng không sao, trời tối ng̣m. Chẳng ai phân biệt được mặt đất này trên đây và vực sâu hun hút dưới kia, nếu không có tiếng gió hú lên và tiếng chân thú đạp lá xào xạc thỉnh thoảng mơ hồ vẳng tới. Cơ sự này, không thể để Trăi ở chùa măi. Vài ngày sau, Bảo xin với Đạo Khiêm đưa Trăi về trại chè.
Lúc ấy, Trăi đôi khi tỉnh dậy. Nhận ra Bảo, ánh mắt chàng có thoáng chút vui, mồm mấp máy, nhưng vẫn không nói được một lời. Bảo mừng, thủ thỉ :
- Không sao ! Em đưa anh về. Thuốc thang chỉ dăm bữa nửa tháng là khỏi !
Trăi nghe, gượng nhếch mép. Khỏi ? Nhưng ta bệnh ǵ ? Cái căn bệnh nằm dưới đáy sông Cầu, giải nước cuốn đi, đếân nơi nao rồi ? Chèo quơ nước ngược. Rồi băo bùng. Chia ly. Chuyến đ̣ sang ngang làm sao vào được bến đến được bờ ! Nước mắt Trăi lại ứa ra. Bảo lẳng lặng lau mặt cho anh, không nói ǵ nữa.
Thuê phu cáng, hai tuần trăng sau Bảo đưa Trăi về trại chè. Đạo Khiêm chống gậy tiễn một thôi đường. Khi chia tay, Khiêm niệm Phật, rồi ghé vào tai Trăi th́ thầm :
- Thí chủù ơi, nếu muốn th́ nương ḿnh cửa Phật. Chùa Thiện Chính lúc nào cũng đợi người lành !
Trăi nh́n, khóe mắt biết ơn, tay ra dấu chào Khiêm. Chỉ c̣n da bọc xương, Trăi khẽ cựa ḿnh trên chiếc cáng cứ bồng bềnh trôi nổi như đám mây ẩn hiện sau những tàn cây rừng xanh thẳm. Chưa bao giờ chàng thấy ḿnh yếu đuối đến vậy. Chưa bao giờ chàng thấy ḿnh thừa thăi đến vậy. ‘‘ Sao băng, sao băng...’’. Tiếng réo gọi sao trời chập chờn ở đâu thoảng lại. Trăi nhắm mắt. Chàng chỉ mong là một v́ sao băng mang vệt sáng cuối cùng của một thân phận chẳng níu được vào đâu để t́m ra hy vọng.
*
Như vậy, cái giấc mơ có người nối dơi của Bảo vẫn chưa thành. Đứa gái út của Bảo và Đào Nương năm nay lên bốn. Khi đẻ nó ra, Đào Nương có vẻ buồn, nhưng Bảo cười, đùa ‘‘ Một trăm con trai không bằng cái lỗ tai con gái ’’ và đặt tên là Nguyễn Phi Anh. Lên một, nó chưa biết đi đă biết nói. Ríu rít cả ngày, trại chè gọi nó là con Vàng Anh, tên một loài chim trong chuyện cổ tích.
Vàng Anh suốt ngày lê la với Đào lăo. Cả hai cứ thoắt một cái lại vào với Trăi, nay Bảo xếp cho ở một trái nhà. Sau vài tháng về trại chè, Trăi b́nh phục, xong bệnh á khẩu vẫn không chữa được. Muốn nói điều ǵ, Trăi phải cầm ngón tay người đối thoại viết chữ. Khổ một nỗi, nếu gặp người mù chữ th́ chịu. Đào lăo xưa có đi học nhưng bỏ ngang, để hết th́ giờ vào chuyện đàn sáo. C̣n Vàng Anh, nó phải nhờ Đào lăo nói lại mỗi khi tṛ chuyện ǵ với Trăi. Cái mối kết tay ba đó tạo ra vô số chuyện ngộ nghĩnh, chính là bởi Vàng Anh. Bắt chước mẹ, nó bịa ra những bài hát, rồi líu lo :
Em với ánh trăng vàng
Nay đem cho bác cho ông
Mặt nước vui reo cười
Tung tăng múa máy trên ḍng...
Đào lăo thường hấp háy, kéo nhị đệm vào, miệng móm mém cười chỉ thấy lợi. C̣n Trăi, Trăi sửng sốt. Chàng nhớ lại những câu hát trong Kinh Thư, mang so sánh rồi giật ḿnh. Những câu hát từ miệng đứa bé bốn tuổi xứ Đại Việt này tuyệt vời, đọ chẳng kém ǵ Kinh Thi của xứ sở xưng ḿnh là trung tâm nền văn minh của quần nhân trên trái đất. Và dĩ nhiên là hơn hẳn những thứ thơ văn sao chép của đám thư lại chỉ biết nhai lại từ phú thi ca Tiền Hán với Thịnh Đường. Hơn ở chỗ nó thật. Nó mang chữ t́nh như chất keo gắn bó con người vào với nhau. Và gắn bó cả vào với thiên nhiên vạn vật.
Từ bấy giờ, Trăi thấy rơ cái giới hạn của chữ nghĩa kinh điển. Chàng thèm nói. Nói được bằng lời khác với viết thành văn tự. Nhớ trong óc là nhập tâm. Nó khác với nhớ qua sách vở, vốn là nhập trí. Văn hóa truyền khẩu có thể truyền không xa, lượng truyền không rộng, nhưng hơn văn tự ở chỗ là truyền sâu vào ḷng người.
Trăi ngẫm lại lời ḿnh nói với Đạo Khiêm khi xưa trên chùa Thiện Chính, than rằng bản sắc dân tộc không đủ mạnh, dẫu ‘‘ Nam quốc sơn hà nam đế cư ’’. Trăi hồi tưởng nỗi băn khoăn trong cuộc đối đáp với Hoàng Phúc ở Đông Quan. Chàng sợ rằng đă học Luận Ngữ, Trung Dung, th́ dẫu nói ‘‘ Đạo Thánh có một, nhưng mỗi nơi lại thờ một cách ’’ đểơ phân biệt ta với người cũng chỉ là nói mạnh. Nói v́ phải nói, nói đến cùng hóa há miệng mắc quai ? Nay, Vàng Anh đă trả lời câu hỏi này. Rằng không, không phải vậy ! Văn tự không thể thay cho những lời hát dân dă. Những câu ca dao tục ngữ hát giặm hát ví mới thực sự chuyên chở đời sống tâm linh của người Đại Việt.
C̣n với kinh điển, vấn đề là học ǵ ? Chính cái học có lựa chọn thực hư, đánh giá tốt xấu, sẽ qui định cách thờ Đạo Thánh. Đạo tỏa ra, lan rộng, ngấm sâu th́ thành một với đời sống. Đó, gọi là phong tục. Nghĩa là cách làm người với nhau. Và làm người v́ nhau. Trong các hành xử đi từ cá nhân đến gia đ́nh, rồi từ làng thôn cho đến cả đất nước, bản sắc của một dân tộc biểu hiện ra. Nó là một thực thể. Nó biến hóa linh động. Nó phát xuất từ quá khứ, nhưng không chỉ lập lại quá khứ mà là cách mang hiện tại trên bước đường đi vào tương lại cho một cộng đồng.
Ngồi nghe Vàng Anh líu lo, Trăi chợt nhớ một câu hát chàng nghe từ thuở c̣n nhỏ ‘‘ Này ai tát nước bên đàng. Xin đừng múc ánh trăng vàng đổ đi ’’ . Kinh thi có đâu được một câu thơ đến như vậy. C̣n thi nhân, may ra chỉ có Lư Bạch hoặc Vương Duy là có thể đạt cái đẹp đó. Trăi vào mài mực. Ngẫm nghĩ một lúc, Trăi viết ‘‘ ...Tứ Thư, Ngũ Kinh chỉ uốn nắn một phần đời sống. Đạo làm người Đại Việt không chỉ ở đó. Bản sắc một dân tộc nằm trong sự sống của dân tộc đó. Nó có trước và vượt trên văn tự. Nó tự khẳng định như một toàn thể. Bản sắc là văn hóa. Và văn hóa của một dân tộc là ngôn từ. Ta giữ được ngôn từ, là ta tồn tại. Ngôn từ mỗi ngày một đẹp là ta tiến hóa. Ngược lại ta giật lùi. Tụt hậu cho đến khi ta không c̣n là ta, th́ ta nói tiếng người, hát nhạc người, ăn cơm người, nghĩ bằng đầu người. Nghĩa là ta mất văn hóa, chập chờ thành cái bóng người khác như một hồn ma. Nghĩa là ta không sao bấu víu được gốc cội của ḿnh ’’.
*
Năm Kỷ Hợi ( 1419 ), Tổng binh Lư Bân sai làm hộ tịch trên khắp đất Đại Việt. Về mặt binh bị, Bân tiến đánh nghĩa quân ở Đà Sơn, Mường Chánh, Lư Sơn và Vu Sơn. Sang năm Canh Tư ( 1420 ), Lê Lợi mai phục ở Bến Bồng đánh tan một đạo quân Minh, lấy được Mường Nanh và Mường Thôi. Lư Bân và Phương Chính phản công, nhưng thua, phải lui về cố thủ Tây Đô. Lợi tiến lên Lỗi Giang, phái Lê Sát và Lê Hào đánh Tây Đô. Hàng dân châu Diễn nơi nơi hưởng ứng, khí thế nghĩa quân như diều gặp gió.
Đến năm Canh Sửu ( 1421 ), nhà Minh phái bọn Mă Kỳ, Trần Trí và Sơn Thọ vào b́nh định. Lê Lợi thắng được vài trận phục kích, nhưng nay mất một thế lực đồng minh là quân Lăo Qua. Hậu cứ của nghĩa quân Lam Sơn không an toàn như trước. Lợi vào thế bị kẹp, xoay trở rất khó khăn, ảnh hưởng trong dân gian càng ngày càng giảm. Trong t́nh thế ấy, Trần Nguyên Hăn ngược sông Lam đến Lư Sơn gặp Lợi vào buổi lập thu. Sau khi bàn bạc xong xuôi, Hăn tiếp tục đi vào trại chè thăm Trăi. Hà Trí Viễn xin theo.
Khu nhà nằm giữa hai ngọn đồi chè khoảng trăm nóc gia, chia thành thôn thượng và thôn hạ. Phi Bảo hớn hở đón Hăn, và khi biết Viễn là người đi cùng, chàng chắp tay cám ơn Viễn đă chăm sóc phần mộ tổ nhà ḿnh trong suốt mười năm. Hăn và Viễn đ̣i đến gặp Trăi ngay. Nhưng khi đó, Trăi và Vàng Anh đi câu trên bờ sông Lam, măi sẩm tối mới về. Hăn thấy Trăi, chồm dậy nắm vai, mừng mừng tủi tủi :
- Th́ vẫn chú đây. Ta đă sợ...
Viễn lừng lững đến cạnh Trăi, nắm tay, miệng ề à :
- Em cũng sợ... Nhưng em biết rồi bác cũng qua. Người ta có số cả mà.
Trăi chỉ vào miệng, lắc đầu, mỉm cười. Trăi vẫn á khẩu, không nói được. Nắm ngón tay trỏ của Hăn, Trăi viết vào khoảng không :
- Ngậm lời. Trời bắt vậy...
Cười ha hả, Hăn mượn lời Hàn Dũ, đáp :
- Bất b́nh tắc minh.
Bấy giờ, Hăn mới thấy những thay đổi trên khuôn mặt Trăi. Xưa, đôi mắt Trăi sắc lẻm, ánh tinh anh lấp loáng trên g̣ má nhô cao. Nay, đôi mắt đó trở nên trầm tĩnh. Và cái nh́n không giấu được nét u buồn thấp thoáng. Chạnh ḷng, Hăn bùi ngùi :
- Chớp mắt mà xa nhau đă sắp hai năm...
Trăi gật đầu, tay chỉ vào miệng rồi lại viết vào khoảng không :
- Thiên h́nh ! Vô ngôn !
Buổi tối, mọi người quây quần chung quanh một mâm cơm đạm bạc. Phi Bảo kể cho Hăn và Viễn nghe t́nh h́nh trong vùng. Dạo này, bọn quan quân nhà Minh lại bắt đầu sục sạo, không c̣n e dè như trước. Hăn dặn phải cảnh giác và phác họa cho Bảo và Trăi hoàn cảnh chung ở Thanh - Nghệ. Lẳng lặng nghe, Trăi không góp chuyện. Vàng Anh, khi nào cũng ngồi cạnh Trăi, giương cặp mắt tṛn to lên nh́n, bi bô bảo đánh giặc cần tiếng hát. Đào Nương suỵt con, nhưng Hăn dịu dàng hỏi :
- Hát thế nào ?
Nh́n Trăi gật đầu ư khuyến khích, Vàng Anh nói :
- Đào ông đệm cho cháu nhé...
Đợi lên dây đàn xong, nó nhịp tay xuống mặt phản, miệng cười rồi hát theo điệu Quan họ :
Trèo lên núi dốc
Dựa gốc cây rừng
( ối a ), ta dựa gốc cây rừng
Dưới kia, quân thù dưới kia
Thù này, ( ôi ) ta phải trả
Ta đuổi nó ( ôi à là ) ta đuôỉ nó ( ôi à )…
Đào Nương bật miệng hát theo. Và rồi đám con gái Phi Bảo cũng đồng thanh cất tiếng.
Hăn ngạc nhiên, nhưng nét vui hiện trên mặt. Hà Trí Viễn ề à hát theo, giọng ồ ồ lắm khi át tiếng mọi người. Nắm ngón tay Trăi, Hăn viết :
- Lại chú. Tṛ này của chú hẳn...
Trăi viết, đáp :
- Không. Đệ làm sao nghĩ đến nổi... Là họ đấy. Có được thế, là do hàng dân mà ra cả. Chúng ta là bề nổi. Chiều sâu một dân tộc là ở họ, trong họ. Và sức bật, nó đến từ cuộc sốâng !
Đến đêm, khi mọi người đă yên ngủ, Hăn nắm tay Trăi viết hai chữ :
- Đại sự ?
Trăi lắc đầu. Nắm tay Hăn thật lâu, ḷng Trăi quặn xót như sát muối. H́nh ảnh Xuyến trên ḍng sông Cầu lại hiện ra. Trăi viết :
- Điều kỳ diệu của sự sống là trong từng cái nhỏ nhoi.
Hăn thở dài. Trăi quơ dưới chiếu, hai tay đưa lên cho Hăn một cuối sách, tựa là Nam Dao chí, mắt sáng lên nh́n. Đỡ lấy, Hăn đọc lời tựa xong, nh́n Trăi ḍ hỏi. Trăi lại viết :
- Đệ chép xong được bốn trăm câu ca dao và tục ngữ, gói ghém tâm và t́nh của hàng dân kết tinh từ thế hệ trước qua thế hệ sau. Đây là sự sống, và là cách làm người với nhau của dân Đại Việt. Bây giờ, đệ mới hiểu rằng sở dĩ cha ông ta thời Lư - Trần đánh đuổi được xâm lăng là v́ dân ta khác với quân xâm lăng. Đằng sau gươm giáo một cuộc chiến là cuộc xung đột văn hóa. Chính nó mới giải quyết thắng, bại...
Nắm vai Trăi, Hăn buột miệng :
- Chú thấy ǵ ở cái tâm và cái t́nh của dân ta ?
Trăi lại nắm ngón tay Hăn, viết tiếp :
- Đệ thấy dăm điều... Nhưng đặc biệt nhất là cái khả năng ḥa mà không đồng, giống như cây tre trước gió lớn. Cây cong theo chiều gió thổi nhưng khi hết gió, cây lại thẳng ḿnh đứng trong trời đất. Tại sao ? Cái hệ ‘‘ quân thần, phụ tử, phu phụ ’’ nhập vào từ Trung Quốc do bọn nhà nho là để củng cố một Đế Chế tồn tại trong xă hội nông nghiệp. Xă hội này tất phải phụ hệ. V́ nó dựa trên sức mạnh thể chất của đàn ông, thời b́nh th́ đi cày, thời loạn th́ đi lính. Nhưng đó đâu phải là lẽ tất nhiên. Huynh xem, lúa th́ dân ta đă cấy từ thời cổ đại. Đến khi phương Bắc xâm lăng, những kẻ đứng lên giành lấy độc lập đầu tiên là hai Bà. Thuở đó, đệ nghĩ gia tộc dân Lạc Việt ta đặt trên nền tảng mẫu hệ. Gia tộc phụ hệ có thể chỉ đến trong giai đoạn Bắc thuộc một ngh́n năm. Nhưng nó c̣n nhợt nhạt lắm, hàng dân đâu có tùng phục mù quáng.... Huynh thử đọc - Trăi lật Nam Dao chí, tay chỉ - mắt nh́n thúc giục. Hăn ghé chiếc đèn dầu vào gần:
Đàn ông năm bẩy đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Và rồi không nhịn được, Hăn cười ằng ặc khi đọc :
Gái chinh chuyên lấy được chín chồng
Về viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Không may quang đứt lọ rơi
Ḅ ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.
*
Mười hôm ở trại chè, Hăn ngạc nhiên thấy quả Trăi đă tách ra khỏi cách suy nghĩ của lớp sĩ nho cùng thời. Măïc dầu c̣n trọng vọng những Chu An, Hàn Thuyên..., Trăi cho rằng họ quá vội vàng áp đặt hệ tư tưởng nho giáo mà chưa kịp sửa đổi để phù hợp với cái tâm và cái t́nh Đại Việt. V́ thế cho nên dù có sự tương ứng đồng thanh của Vua nhà Trần, đám nho sĩ chỉ đẩy lùi được đôi chút ảnh hưởng của tăng lữ trong triều đ́nh. Nho giáo đến nay vẫn chưa có tác động tích cực trên đời sống dân gian. Cho rằng hệ Tống Nho với tư tưởng Chu, Tŕnh quá duy lư và cực kỳ khe khắt, Trăi quả quyết rằng mang ra áp dụng vào xă hội ta chỉ sẽ dẫn đến những mâu thuẫn và phân hóa sâu xa. Hăn gật gù nhưng bảo chuyện trước mắt là giặc Ngô chiếm đóng nước ta. Trăi b́nh tĩnh, nắm tay Hăn, viết :
- Chính giặc sẽ đưa những mâu thuẫn và phân hóa đó đến độ giặc phải thua. Đó là điều không tránh được...
Về phần Viễn, chàng cả ngày học hát làm Vàng Anh cứ cười như nắc nẻ. Thế là sau này, những bài hát giặm, hát ví và quan họ theo phong cách cứu dân chống giặc lan truyền trong nghĩa quân Lam Sơn, trở nên rất phổ biến trong thời kỳ chiến tranh giải phóng. Viễn lại xem địa h́nh địa vật trại chè rồi bảo Bảo.
- Nói, sợ ông anh buồn nhưng hai cái quả đồi chè trông như hai cái mông đít voi. Thôn thượng và thôn hạ lại kẹp ở giữa, đằng sau là sông, đằng trước là rừng... Tôi bảo thật, thế đất này không tốt. Voi qú th́ người trong thôn sẽ ra làm sao ? Cái thế Tượng qú này phải phá đi ! Muốn phá, đặt một cái miếu tế thần Hỏa ở thôn Hạ. Lửa dí vào đít, ắt voi phải nhổm dậy, qú được thế nào mà qú !
Bảo nghe chỉ cười. Hăn cợt :
- Chú Viễn vừa đánh giặc vừa làm thầy phong thủy, thật mỗi lúc công lực mỗi tăng !
Nhưng sau, Hăn dặn riêng Bảo, khi giặc vào trại chè chắc là đi bằng hai ngả thủy bộ. Một là dọc sông Lam. Hai là từ phía Nam Lư Sơn. Vậy th́ Bảo phải tính đường rút cho dân chạy lúc bị truy bức. Đường đó là đường về phía bắc núi Lam. Sửa soạn tích trữ lương khô đề pḥng khi nguy cấp là việc tối cần, không tŕ trệ được.
Tối hôm trước khi chia tay, Hăn hỏi Trăi có muốn về với ḿnh không. Trăi lắc đầu. Một tay đỡ cuốn Nam Dao chí lên, tay kia Trăi chỉ Vàng Anh, rồi viết vào khoảng không :
- Đệ định chép thêm dân ca... Con bé cháu và cô em dâu biết rơ âm điệu. Lại c̣n Đào lăo nữa. Thiếu họ không được...
Dẫu chắc không hiểu ǵ, Vàng Anh nép vào bác như một phản ứng từ linh tính. Nó ngửng lên, cặp mắt đen lay láy tṛn xoe, hỏi :
- Con hát tiễn bác Hăn và chú Viễn nhé...
Viễn nhanh nhẩu, ôn tồn bảo :
- Hát đi, hát đi !
Dưới ánh trăng non độ lập thu, tiếng trống ếch bập bùng và tiếng kèn, tiếng nhị luyến lấy giọng hát Vàng Anh. Hát rằng :
Người ơi người ở đừng về...
Người về em những ( ơ à ) mấy khóc ( ơ khóc ) thầm
Vạt áo ( ấy a ) ướt đầm, ướt đầm như ( à ) mưa
Người ơi người ở đừng về...
Hăn bật nói :
- Đại sự chẳng phải chỉ để giành đất tranh sông mà là để bảo vệ những tiếng hát này !
Trăi nh́n thật sâu vào mắt Hăn. Chàng nhớ lại lời ông ngoại. Khi tiếp Hồ Nguyên Trừng thay mặt Hồ Quí Ly đến Côn Sơn hỏi ư về việc triều chính, Băng Hồ tiên sinh bảo ‘‘ Cứ xem, cuối hai trăm năm là lẽ tuần hoàn rơ ràng có suy có thịnh. Mệnh trời như thế cũng đổi thay. Hết Lư, đến Trần. Rồi th́ cũng phải hết Trần... như một qui luật. Tướng công cứ về nói như vậy với phụ thân cho ta...’’. Tháng sau, Hồ Quí Ly tiếm ngôi. Nhưng thay Vua đổi Chúa là thay đổi lớp sơn. Gỗ dưới mới là cái chống được nắng mưa. Chính đám hàng dân, với những lời ca kia, với t́nh với nghĩa, mới là lớp gỗ này. Và, tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Cầm tay Hăn, Trăi viết lại lời cha chàng trên ải Phá Lũy :
- Vua quan là thuyền, dân là nước. Đưa thuyền đi là nước mà lật được thuyền cũng là nước.
Hôm sau, Trăi đưa Hăn và Viễn đến đầu ngạn Sông Lam. Nh́n Trăi đưa tay vẫy từ xa, Viễn hỏi :
- Hai bác chuyện tṛ với nhau bằng tay như xẩm sờ. Em chẳng hiểu ǵ sất ! Thế sao bác Trăi không chịu theo chúng ḿnh ?
- Là v́ Trăi đang lo đại sự !
- Bác đừng lỡm em. Đại sự giờ này có đại đầu mục Lam Sơn, có bác và Chích, rồi có bác Xảo và Xa khả Tham. Bác Trăi lo một ḿnh thế nào được ?
- Cái đại sự của chúng ta ở trước mắt. Nó là chuyện đuổi giặc. Rồi đuổi được th́ lập triều chính. Cái đại sự của Trăi khác. Nó ở ba bốn trăm năm sau.
- ...
- Trăi đang sửa soạn Kinh Thi Đại Việt. Thế là để thay thế cái Kinh Thi của ông Chu, ông Khổng nước Trung Hoa đấy.
- Kinh Thi Đại Việt là cái ǵ ?
Hăn nghiêm mặt hỏi :
- Chú có nhớ bài hát tiễn tối hôm qua không ?
Viễn gật. Hăn lại bảo :
- Chú thử hát lại xem !
Ngạc nhiên, Viễn hít hơi lấy giọng, ôm ồm hát. Đợi khi Viễn hát hết câu, Hăn bật cười quàng vai Viễn nói lớn :
- Đấy, Kinh Thi của ta như thế đấy !
*
Cơn gió bấc đầu tiên báo Đông về năm nay đến sớm hơn thường lệ. Mưa chiều rả rích, khí núi lượn lờ như sắp sửa rơi xuống, và cỏ cây ủ rũ cam chịu với bốn mùa đổi thay của một thiên nhiên nghiệt ngă. Hàng dân trong trại chè cắp nón mê, khoác áo tơi bằng lá gồi, lom khom thấp thoáng như đám c̣ ở đâu về đậu đầy bến sông Lam.
Cời than bếp cho lửa bùng lên, Trăi bỏ thêm dăm đọi củi ngo rồi ngả người dựa lưng vào vách. Mùi củi cháy thơm lừng, khói tỏa lên không trung một lớp màn xanh mỏng loăng mơ hồ. Siêu nước bắt đầu ấp úng sôi, hơi bốc, tiếng nước reo lên mời mọc. Trăi châm đèn rồi pha chè, thứ chè móc câu mới sấy vụ năm nay.
Đêm xuống. Cơn lạnh thấm dần vào cơ thể. Trăi khoác lên vai tấm áo ngự hàn, xoa tay, rồi vặn bấc xuống. Ngọn đèn thu ḿnh lại, xanh như mắt mèo nhấp nháy. Tợp một ngụm chè, Trăi nhắm mắt, nhấm nháp vị ngọt chát đọng lại rồi thả cho tâm trí thênh thang vào một cơi không kiềm tỏa, không ư niệm, không tiên kiến. Đột nhiên, chàng nghe bên cạnh tai giọng ai đó văng vẳng :
Loàn đoan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm th́ thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dù c̣n áo lẻ
Trăi mở mắt. Ô hay, rơ là Xuyến đứng bên bếp lửa nh́n chàng, miệng cười giễu cợt :
- Ghê nhỉ, dám ướm hỏi con gái người ta rồi rủ rê đắp ấm với nhau à ?
Trăi bẽn lẽn, gượng đáp :
- Chắc tại trời bên ngoài lạnh quá...
Xuyến chép miệng :
- Thế bên trong th́ sao ? Cái lạnh bên trong đấy chàng ạ !
Nh́n Trăi tần ngần, Xuyến nói như than :
- Có một thân một ḿnh, lạnh lẽo lắm...
Trăi buột miệng :
- Biết thế th́ nàng ở lại, đừng bỏ ta mà đi.
Xuyến lại cười, dịu dàng :
- Nhưng em không ở đây được, chàng ơi ! Chàng đi với em vậy...
Dứt lời, Xuyến kéo Trăi. Cả hai vùn vụt biến vào sương đêm trắng đục, gió vù vù thổi ngược bên tai. Trời sáng dần, nhưng là thứ ánh sáng chiều tà. Đến sân một cái đ́nh, trai gái ở đấy chen chúc nhau cười nói. Đúng lúc nắng tắt, tiên chỉ làng lụm khụm trong tấm áo nhiễu màu đỏ mào gà bước ra. Ba tiếng trống thùng thùng nổi lên át hẳn tiếng người. Đợi cho trong sân im lặng, cụ tiên chỉ nói ‘‘ khai lễ ‘‘ và rồi tiếng phèng la từng chặp vang lừng. Lại tiếng cười, tiếng gọi. Nắm lấy tay Trăi, Xuyến th́ thầm, đừng có lạc mất em. Cả hai đi về rặng ổi cạnh sân đ́nh. Trai gái từng cặp ngồi dưới gốc cây. Tiếng thủ thỉ. Tiếng rúc rích. Rồi tiếng rên rỉ. Xuyến gh́ Trăi xuống, vít đầu hôn tới tấp lên cổ lên mặt. Trăi th́ thầm, Xuyến nhớ cái đêm ở góc thành Nam không ? Xuyến hổn hển, nhớ chứ, chàng ơi ! Chẳng phải nhớ kiếp trước mà ngay cả kiếp này, rồi cả kiếp sau nữa. Trăi lần tay giứt giải yếm. Xuyến kêu, nhanh lên, kẻo sáng mất. Trăi thấy sinh lực ḿnh ứ ra như nhựa cây buổi xuân về. Xuyến kêu, nữa, nữa đi. Giời ơi, em chết mất. Tiếng kêu làm Trăi tê điếng, người nhịp xuống nhấp nhô tựa thuyền gặp sóng.
Giời ơi là giời, em chết mất...
Nghe tiếng kêu, Trăi hiểu rằng chết được trong niềm hoan lạc là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đó không cần đến vật chất làm khung chống. Th́ như thế, xá chi xác thân. Sau niềm hoan lạc sự sống chỉ có thể là cái trống không. Chết mất đâm ra thành cách duy nhất để phủ định cái khoảng trống không kinh hồn đó.
Trăi bừng tỉnh. Ngọn đèn mắt mèo vẫn xanh. Củi ngo hóa than đang nhấp nháy lụi dần. Chàng định thần, cố nhớ lại. Rồi chàng gọi, Xuyến ơi ! Không, không có một ai. Vẫn chỉ tiếng mưa rơi rả rích. Tiếng côn trùng rỉ rả. Bên cửa sổ, đàn đom đóm bay ngang để lại một vệt lân tinh run rẩy trong gió. Trăi vặn to ngọn đèn dầu, ra cài tấm liếp chặn cửa. Khi vào, chàng mài mực, chép lại câu thơ trong giấc mơ. Viết đến câu cuối, Cả ḷng mượn đắp ấm hơi cùng, Trăi bùi ngùi tiếc nhớ. Chàng ao ước làm sao bây giờ mới là lúc chàng đang mơ. C̣n cái thực, là với Xuyến, ở cái đ́nh làng nọ, trong tiếng gái trai gọi nhau của một thiên đường vỡ ra như bọt nước .
*
Tiếng phèng báo động đầu thôn Thượng bỗng chợt rối rít khua lên vào giờ Mùi, tháng Chạp, sau ngày trăng tṛn. Phi Bảo tay đang bế Vàng Anh. Vội bỏ con xuống, Bảo nhẩy phắt lên ngựa ruổi nước đại. Lên đến lưng chừng đồi chè, Bảo trông thấy đám quan quân nhà Minh đă cặp được một chục chiếc thuyền cái vào bờ sông Lam. Nh́n về hướng Lư Sơn, con đường độc đạo cũng thấp thoáng bóng người.
Bảo vừa phi ngựa xuống đồi, vừa lẩm nhẩm tính toán. Cứ một chục thuyền cái, chúng đă có thể vận chuyển từ hai đến ba trăm lính. Thêm vào đường bộ, tổng cộng lại ước ra đến năm bảy trăm, tức là chúng đông gấp mười đội tự vệ của trại chè. Thế th́ đánh chặn, lừa đốt thuyền, cướp thời gian để rút đi, tản người vào miệt rừng phía bắc. Bảo về đến sân trại chính th́ đám tự vệ đă nai nịt sẵn sàng. Cách pḥng thủ dân trại đă nghĩ sẵn, nên việc điều động không có ǵ khó khăn. Bảo lấy hai mươi tráng đinh, sắp đặt gùi lửa, dầu đốt và diêm sinh rồi tự ḿnh dẫn họ vượt sông Lam, đi ṿng lại tập kích vào đội thuyền giặc. Hai khắc sau, giặc bắt đầu xông vào. Toán tự vệ ở hai nút chặn chốâng trả kịch liệt, tiếng tên tẩm độc rít lên xé không trung giữa tiếng la thét, tiếng rú, tiếng gọi nhau ơi ới.
Đào Nương là người chỉ huy việc tản dân xuống thôn Hạ rồi tất cả rút vào rừng. Dân trại tiếc của, gồng gánh chăn màn thúng mủng nồi niêu. Sợ nên cứ quíu lại, họ quơ bên nọ, quào bên kia, la khóc như vỡ chợ. Không ngờ đến t́nh huống này, Đào Nương ngẩn người ra rồi mím miệng tự tay rưới dầu đốt nhà ḿnh. Nàng quát :
- Bớ bà con, mạng không giữ được th́ mang theo được ǵ ? Bỏ lại hết. Chỉ mang chăn mùng và dao, rựa. Thế thôi !
Dặn đám con gái lên đường đi trước, Đào Nương chặt một đẵn tre đực, thúc giục mọi người. Với những kẻ tiếc của dùng dằng, nàng thẳng tay quật, mắt mọng đỏ, miệng kêu :
- Ta đánh mày c̣n hơn để giặc giết mày !
Đám cháy trong thôn Thượng có một tác động bất ngờ. Khi thấy khói bốc lên, Phi Bảo đang vượt sông Lam khựng lại sợ thôn bị giặc tập kích. Ngẫm nghĩ, Bảo ra lệnh cho đám tráng đinh quay lại không đi đốt thuyền giặc nữa. Hai toán tự vệ cũng hoảng hốt cho người chạy về thôn, xuống tinh thần nên sức chống trả không cương mănh như lúc đầu. Tuy vậy, tên nỏ có tẩm độc vẫn chặn được bước tiến của giặc. Chúng ḥ hét nhưng không dám liều mạng xông lên.
Đến cuối giờ Thân, lớp pḥng thủ đường bộ phải rút về tuyến thứ hai. Bảo ra sức ḥ hét, bảo tráng đinh có chắc mới bắn v́ lượng tên nỏ đă vơi. Lúc đó, Đào Nương ở đâu hiện ra. Bảo quát :
- Nhà nó lo việc di tản cơ mà. Đi, đi...
Đào Nương cười, b́nh tĩnh đáp :
- Dân thôn Hạ cũng đă đi hết rồi... Bây giờ em thuộc đoạn hậu, th́ ở đây chứ c̣n đi đâu nữa !
- Sao lại đốt nhà !
- Không đốt, người ta tiếc của không đi. Mà giặc vào, ḿnh không đốt, nó cũng lấy, cũng đốt. Nàng lại cười, rồi cất giọng, hát to :
Trời chưa phong quang
Giặc Ngô vào, trời chưa phong quang...
Đám tráng đinh pḥng thủ lối đường thủy cũng vừa rút về. Họ nhịp tay hát theo. Tiếng hát chống giặc vang lừng lên khiến giặc ngẩn ngơ không dám tiến. Bảo lườm vợ, mắng yêu :
- Nhà nó đến hay. Lúc phải chạy th́ lại đến.
- Th́ em lại quay đầu chạy trước nhé.
Nói xong, Đào Nương nh́n Trăi, thưa :
- Bây giờ, xin bác đi với em...
Vẫy tay gọi tráng đinh cáng theo những người bị thương, Đào Nương đi đến đâu châm lửa đến đó, miệng lẩm bẩm, chúng bay muốn đốt tao cũng chẳng cho. Những bó chè năm nay đă sấy khô bốc cháy, mùi khét lẹt thốc vào mũi ngột ngạt. Trăi nh́n cô em dâu, ḷng bỗng vô vàn cảm phục. Đúng là giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Chàng bây giờ tin như đinh đóng cột rằng dẫu qua một ngh́n năm Bắc thuộc, gia tộc con dân Đại Việt vẫn chưa biến thành phụ hệ như ở Trung Hoa, nơi người phụ nữ bị đè bẹp dưới sự thống trị của tam ṭng tứ đức. Chợt nhớ ra tập Nam Dao chí, Trăi vội vă chạy vào trái nhà nơi chàng cư ngự. Bấy giờ, ngoài tro than, chỉ c̣n lại ba ḥn đá chụm đầu vào nhau làm bếp.
*
Ông ơi, trời tối rồi. Chỉ có lửa. Lửa cháy...
Ông ngửi thấy... Nó cháy ở đâu ?
Con không biết !
Bây giờ, con quay về phía cuối ngạn sông cho ông ?
Chỗ nào là cuối ngạn ?
Tḥ tay xuống nước. Nước xuôi về đâu th́ đó là cuối ngạn.
Con biết rồi, phía này là cuối ngạn. Con quay đây...
Quay chưa ? Thế bên phải hay bên trái ?
Bên nào là bên phải, bên nào là bên trái ?
Bên tay cầm đũa là phải.
_ ...
Lửa bên tay cầm đũa hay tay cầm bát ?
Cầm bát !
Thế là lửa cháy làng ta rồi... Lửa có to không ?
Con thấy cả ngọn...
_ ...
Ai đốt hả ông ?
Ai đốt th́ cũng là giặc đốt...
Bây giờ đi đâu ? Trời tối đen. Con sợ...
Giá chỉ ḿnh ông, th́ ông ngồi xuống đây ông đợi. Đợi tất cả... Đợi xem trời có mắt không ?
_ ...
Nhưng ông con ḿnh phải đi. Con c̣n trẻ dại. Bây giờ, cứ phía đầu ngạn mà đi...
Ông đưa tay con nắm...
Đi ngược chiều nước chảy, đừng có nhầm...
Ông bước nhé...
_ ...
Ông có nghe thấy ǵ không ? Tiếng vượn hú. Tiếng sói tru...
Có. Chúng c̣n xa ḿnh... Nhưng cái đáng sợ không phải là vượn là sói...
Là ǵ...
Là người. Thế mới khổ !
Con không hiểu...
Con đừng hiểu vội... Cứ đi đi, ngược nước mà đi.
Đi măi, đi đến đâu ông ơi ?
Chỗ đến, ông không biết. Nhưng cứ đi, đi th́ xa cái nơi ông con ḿnh không ở được...
Sao ḿnh không ở được, hở ông ? Con mệt lắm. Con chỉ muốn ngủ ? Mẹ con đâu ? Các chị con đâu ?
Ta phải t́m họ. Phải đi con ạ... Tai ông vẫn nghe tiếng nước róc rách. Con đừng xa bờ, cứ men nó mà đi... Bỏ cội nguồn là mất hết phương hướng, con ạ !
_ ...
Con c̣n thức không ? Phải mở mắt ra mà định hướng.
_ ...
Con ơi, hay là con hát lên cho tỉnh ngủ ?
_ ...
Ông hát nhé, ‘‘ Trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây rừng, ( ôi à ) ta ngồi gốc cây rừng... ‘‘ con hát theo ông...
_ ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con đi như đi trong một cơn mộng du. Con ơi, ông không c̣n nghe tiếng nước...
- ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con ơi, ông không biết con đang bước về đâu ? C̣n ông, ông đă ḷa rồi. Ông chỉ con nghe được. Ông không nghe thấy tiếng nước, ta đang ĺa bỏ cội nguồn...
_ ...
Ông lại hát nhé...
_ ...
T́nh bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ ( ối ) bông mà nên bông. Một đoàn ( tang t́nh ) con gái ối mấy lội ( lội ) sông, ối ( mới a ) đi t́m...
Th́nh ĺnh, tiếng bật hồng rồi cả chục ngọn đuốc soi lên. Một tên giặc quát, tiếng trọ trẹ :
- Đây rồi. Một thằng già điên. Và một con bé con...
Đào ông giơ chiếc đàn độc huyền lên cao, hăm he :
- Tao đánh bỏ mẹ chúng mày...
Bọn giặc thấy cảnh bật cười, hộc lên rồi từng bước sấn lại. Đào ông hét :
- Vàng Anh. Hát lên con. Hát lên để đuổi chúng nó đi...
Lúc đó, Vàng Anh bừng mắt. Nó nghe Đào lăo, giọng bí bô cất lên :
- Ấy mấy lội ( lội ) sông. Ấy mấy ( ai ) mà đi t́m. Đi t́m ( t́m ) ai... Đi t́m, t́m ai...
*
Hai ngày sau khi quân Minh bỏ đi, hàng dân trại chè lại lục đục kéo nhau về. Thôn Thượng và thôn Hạ nay hoang tàn. Kèo cột cháy dở ngu ngơ xiêu vẹo. Gạch ngói đổ nát tứ tung. Tro than bộn bề bám vào mặt đất nhăo nhoẹt dưới mưa dầm. Dăm con chó ve vẩy đuôi thấy người về, không sủa mà chỉ kêu lên hinh hích.
Người ta bổ đi t́m những người thất lạc. Tính sổ, ngoài hai người chết trận, có mười bảy tráng đinh bị thương. Và bốn cụ già chết cóng trong rừng. C̣n lại, cả chục người không thấy tăm tích, trong đó có Đào lăo và con bé Vàng Anh. Cả nhà Phi Bảo chia nhau, mỗi người đi về một phương. Xưa, Trăi hay đi câu với Đào lăo và Vàng Anh. Chàng men bờ sông Lam đến chỗ thường thả câu nh́n quanh quất. Không thấy bóng dáng ai, Trăi thả bước ngược ḍng đi lên. Trong ḷng sông, nước xuôi xuống uốn lượn, có chỗ đập vào đá nổi bọt trắng xóa, cuốn đi những xác lá mục chập chờ ch́m trôi tăm tích.
Chàng nh́n xuống lối đi đất c̣n ướt, thấy dăm dấu chân. Đi thêm, cây mang những vết chém, cành rơi nằm ngang dọc. Trăi dấn bước, ḷng hồi hộp, linh tính báo cho chàng điềm chẳng lành. Chàng vạch lá, rẽ cây, mắt chăm chú nh́n trừng trừng. Một lúc sau, Trăi đến một bờ đá đâm ra sông. Trăi đến gần. Một búi tóc bạc dựa vào hốc, mặt hướng ra ngoài. Chạy vội lại, Trăi nhận ra Đào lăo. Đầu ông cụ ngoẹo xuống, vạt áo trước ngực máu vấy thâm đen. Chỗ dao đâm, bọn giặc Ngô lại nhét cái cán cây đàn độc huyền đă bị đập nát bấy vào. Trăi cúi xuống. Miệng Đào lăo móm mém mở toác ra như kêu như gào trước khi chết. Cặp mắt ḷa nay chỉ c̣n một lớp gân mỡ trắng hếu vô hồn trợn trừng trừng. Một đám kiến ḅ thành hàng trên mặt lăo nay cứng lạnh như gỗ, thản nhiên chui vào miệng, vào mũi, vào lỗ tai. Chúng lúc nhúc bu quanh cái cán đàn, tiếp tục đục khoét vết thương chí tử. Trăi bật dậy. Chàng muốn kêu, nhưng cổ tức lại, thanh âm kẹt cứng yết hầu. Vàng Anh đâu ? Chàng nhảy bổ sang bên cạnh. Rồi rúc vào bụi. Vẫn không. Chàng lại sấn tới. Trước mặt là một khoảnh đất thưa cây. Vẫn không. Trăi lại lao lên, cơn sợ hăi khiến chân chàng tê cứng.
Ở b́a rừng, Vàng Anh chơ vơ nằm đó.
Con bé trần truồng, phần hạ thể be bét máu đă đông đặc. Mắt nó mở to, nét kinh hoảng nguyên vẹn, hai tay cào bấm xuống bụi cỏ bị đạp nhàu. Vàng Anh ơi, hỡi Vàng Anh ! Trăi thét lên ‘‘ Giời ơi là giời ! Giời có mắt không hả giời ! ’’.
Đó là lần đầu Trăi nói ra lời sau một năm á khẩu. Tiếng thét của Trăi vọng vào vách xuyên qua vực bay theo gió lạnh một mùa đông khắc nghiệt. Gục mặt xuống đất, Trăi cứ thét gào cho đến khi dân trại chè chạy ùa lại.
Đào Nương nh́n con rồi ngất đi. Phi Bảo cởi áo quấn lấy xác Vàng Anh bế lên, nước mắt nḥa nhoẹt trên mặt nhưng mím môi không nói một câu. Xác Đào lăo đặt trên một cái cáng, hai người khênh hai đầu, lầm lũi bước.
Hai ngày sau khi chôn cất những kẻ tử vong, dân trại chè họp nhau lại. Bảo nói :
- Cơ sự này, ai ở lại cứ ở mà làm chè. Tôi phải đi !
Khi có người hỏi đi đâu th́ Bảo trỏ tay về phí núi Lam. Hầu hết đám tráng đinh theo Bảo vào Lam Sơn tụ nghĩa. Đêm hôm đó, Bảo hỏi Trăi :
- Anh có đi không ?
- Chú đi trước đi. Rồi sẽ gặp.
Mặt Trăi nay như thép nguội, hai con mắt lại lấy lại tất cả nét tinh anh ngày trước. Trăi mang nghiên bút vào mộ Vàng Anh mới đắp, căng lều ở mươi bữa, ngày ngày g̣ người ra viết. Lần này, sách B́nh Ngô thảo bằng chữ Nôm, không điển cố, không chữ nghĩa cầu kỳ. Sách viết rất đơn giản, câu chữ mạnh lạc. Bởi mọi sự thật đều đơn giản đến hiển nhiên.
Viết xong B́nh Ngô sách, Trăi nấu mật rồi chọn cả trăm chiếc lá rừng loại to bản. Bỏ hai ngày trời, chàng lại cắm cúi chấm mật viết lên lá.Viết xong chàng mang đống lá đến để cạnh một tổ kiến đất.
Một đêm trước khi lên đường, Trăi ngồi thắp hương trên mộ Vàng Anh. Chàng khấn ‘‘ đuổi giặc rồi, bác lại chép lại Nam Dao chí cho con. Cái chết của con không vô ích đâu, Vàng Anh ơi ! Nó dạy cho bác vế thứ hai của việc lấy đạo nghĩa chống hung tàn. Đó là mang trí, nhân thay cường bạo. V́ chỉ có thế th́ con người mới tránh được sự hủy diệt của chính con người trong mai hậu ’’.
Th́nh ĺnh một con chim cánh chuốt màu lửa từ chân mộ bay vút lên. Cánh chim thành một v́ sao tít tắp, muôn đời nhấp nháy với gọi tương lai trong khoảng trời đất vô cùng của những con người khốn khổ.