2 Chim trong lồng
Chiếc sào cắm xuống ḷng sông dướn cong lên, đẩy về phía sau những dợn sóng loang loáng dưới ánh trăng lóng lánh. Tiếng mái chèo đều đặn khỏa vào nước, tiếng nước bập bềnh đánh nhịp vào mạn thuyền. Dọc bờ, mái tranh lổn nhổn thấp cao, ẩn hiện trong những ṿm cây u uẩn. Thuyền cứ thế, trôi đi. Ngọn đèn chai đầu mũi chao đảo trong gió đêm, lắm lúc tưởng như là sắp tắt. Thỉnh thoảng, những đàn đom đóm không biết từ đâu bay ra, văng tung lên trời những chớp sáng lân tinh nhẩy múa trong bóng đêm. Đâu đây, tiếng vạc vẳng lại, vô hồn, lạc lơng. Thuyền cứ thế, vẫn trôi đi.
Sông dần dần hẹp lại. Lái thuyền quen việc, chẳng bảo nhau, phối hợp những động tác đă thành máy móc. Cập vào bờ, người đứng đầu thuyền xếp dọc con sào, nhẩy xuống nước, tay nắm lấy sợi chăo to bằng cổ tay kéo vào, miệâng ḥ lên « Đến rồi...». Tiếng người léo xéo nổi lên. Tiếng rục rịch khuân vác xuống thuyền. Độ nửa khắc sau, một đoàn khoảng gần hai chục người từ chân đê xoài người đi lên. Họ lặng lẽ theo sau một chiếc vơng lắc lư trên đ̣n khiêng chĩu nặng trên vai hai người phu lực lưỡng. Khi đến cửa ô Quan Chưởng, trống điểm canh ba vừa điểm. Tiếng chó tru lên sủa, rồi tiếng quát hỏi giật giọng của lính tuần canh c̣n khàn đặc cơn ngái ngủ. Dăm ba ngọn đuốc từ chân thành thắp cháy hắt bóng người lên tường thành cao nghễu nghện, nghiêng đổ, thấp thoáng như ma chơi. Đoàn người dừng lại. Dưới ánh đuốc chập chờn, một người trong bọn râu quai nón, mắt sắc, dáng chắc nịch, bước ra th́ thào với đám lính vừa bổ tới vây quanh. Cổng ô mở ra, tiếng bản lề kèn kẹt rít lên.
Mồm lầu bầu chửi tục, một người lính leo lên lưng ngựa, tay vung ra sau quất roi. Phu khênh vơng lẳng lặng hạ đ̣n xuống. Ông cụ nằm vơng chống tay từ từ ngồi dậy, búi tóc đă bạc sổ ra lưa thưa. Quơ tay lên búi lại tóc, ông vặn ḿnh, mắt hé nh́n ra màn đêm dầy đặc. Tiếng điếu cầy rít ṣng sọc, rồi tiếng ho khan hục hặc cắt quăng. Mùi thuốc lào hăng hắc ḥa vào mùi dầu đốt đuốc khét lèn lẹt xông ùa vào mũi. Nh́n lên, trời cuối tháng ba li ti những giải sao pha lê lấp lánh. Gió vẫn c̣n lạnh ngắt, từng cơn bốc hương đất ngai ngái mùi rơm rạ.
Đợi độ một tuần nhang th́ tiếng chân ngựa vẳng lại lúc một gần. Ông cụ nằm vơng vẫy tay gọi người nhà dặn ḍ. Vơ Toàn Nhật, người có râu quai nón, tiến ra đón thanh niên cưỡi con ngựa chiến đang nhanh nhẹn nhẩy xuống yên. Xưng tên là Hoàng Đăng Khoa, con của Huy Quận công Hoàng Tế Lư hiện giữ chức Chánh dường coi toàn bộ chính sự trong phủ Chúa, người đó khẽ nghiêng ḿnh. Vái chào lại, Nhật nói :
- Thầy tôi cao tuổi, lại đi suốt mười ngày đường nên quá mệt không c̣n sức tiếp lễ cho phải phép, xin được thứ lỗi cho đêm nay .
Hai người tách ra đi về phía chiếc vơng. Dưới ánh đuốc, một người tầm vóc, lông mày xếch, quai hàm bạnh ra và môi trông như hơi mím lại, bước ra chào. Nhật giới thiệu Nguyễn trọng Thức, người đồng môn. Nghiêng ḿnh chào lại người đó xong, Đăng Khoa lẳng lặng đến vái trước vơng rồi phất tay ra lệnh lên đường.
Đoàn người rời cửa ô, lầm lũi đi theo ánh đuốc lập ḷe chao đảo trong gió đêm. Men qua giẫy nhà hàng phố vẫn c̣n im phăng phắc, người nọ nối chân người kia rẽ về phía trái. Đi thêm quăng nửa khắc, cả đoàn ngừng lại. Tiếng gọi cổng vang lên, rồi tiếng rút then, tiếng bản lề kẽo kẹt, tiếng người suỵt đàn chó đang oăng oẳng sủa. Qua một chiếc sân gạch dài, Đăng Khoa tạt về mé phải, tay chỉ dẫy nhà ước chừng đến hơn chục gian, nh́n Thức và Nhật, khẽ nói:
- Đêm đă khuya nên xin về tệ xá . Đây là nơi Phu tử và các vị tạm trú, mai này cha tôi sẽ cho lệnh xếp đặt lại sau. Đợi qua ngày, tôi sẽ lên chào Phu tử.
*
Sắp đặt xong chỗ ăn chỗ nằm cho Phu tử, Trọng Thức bước ra sân ngước mắt nh́n trời. Vào cuối tháng ba, đến canh tư mà trời c̣n đen kịt. Tiếâng vạc ăn đêm thỉnh thoảng lại vọng về năo nùng, trống vắng. Lững thững bước quanh ven chiếc ao thả sen, Thức lắng tai nghe những âm thanh mơ hồ đến huyền hoặc. Dăm con cá ngóc lên đớp muỗi làm đám bọt nước lúc nổi lúc ch́m lục bục vỡ. Những tàn sen se ḿnh níu giữ một chút b́nh yên qua đêm sót lại. Vài ráng mây rám hồng một lúc sau loáng thoáng hiện dần nơi chân trời, rồi lao xao tiếng gà gáy sáng vẳng lên, bắt đầu c̣n thưa, sau cứ liên tu như giục giă đuổi bắt lẫn nhau.
Đứng dậy vươn vai hít không khí cho đầy ngực, Thức bước vào nhà. Toàn Nhật đang lúi húi đun nước cho tuần trà buổi sáng. Phu tử lưng dựa vào vách, tay vê điếu thuốc lào, mắt trũng xuống sau nhiều đêm ít ngủ.
Sáu năm sau khi nhậm chức Huấn Đạo, Nguyễn Thiếp được thăng lên làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thế, nhưng Thiếp lui về ở trại Bùi Phong, việc quan trao hết cho bọn nha lại. Khi thầy ḿnh là Nghiễm, Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh, mất vào buổi lập đông năm 1768, Thiếp từ quan, bỏ hết thời giờ vào chuyện học thuật. Quan Hiệp Trấn xứ Nghệ là Bùi Huy Bích gửi thơ lên thăm, lời lẽ tán tụng :
« Ngẩng trông am núi cách vời.
Núi cao rừng thẳm tột trời mây xanh.
Muốn lên thăm hỏi sự t́nh.
Lại e một nỗi ông khinh người phàm »
Trong thơ trả lời, Thiếp nhân đó xin khoan giản thuế tư điền cho dân Thanh-Nghệ. Từ đó, người đời gọi Thiếp là Phu tử, tiếng đạo hạnh nổi lên khắp nước. Giữa tháng ba năm Cảnh Hưng thứ 41, Phu tử nhận được tờ truyền của chúa Trịnh Sâm mời lên Kinh. Phu tử ngần ngừ, nhưng thế chẳng đặng, phải cùng con trưởng và hai người học tṛ thân thiết nhất lên đường.
Ánh nắng sớm ửng vàng trên cḥm râu Phu tử bạc trắng lung linh qua làn khói thuốc. Phu tử ngả người ra sau, chiêu một ngụm nước, mắt nửa nhắm nửa mở. Một lát sau, nh́n học tṛ, Phu tử chậm răi nói :
- Chốn kinh kỳ miệng người như miệng rắn, tai người như tai dơi. Thầy chưa muốn tiếp ai trước khi gập Hy Doăn Ngô th́ Nhậm.
Phu tử sai Trọng Thức đi t́m Nhậm. Khăn áo chỉnh tề xong, Trọng Thức chào thầy rồi đi ra cổng. Chỉ lát sau, Thức lại quay vào. Ngạc nhiên, Toàn Nhật hỏi. Thức cười khẩy, tay khoanh một ṿng tṛn, rồi lẳng lặng bước vào pḥng Phu tử. Ở ngoài, Toàn Nhật chỉ nghe thấy một tiếng hừ bực bội rồi một tiếng đập bàn.
*
Thuở Trọng Thức mới mười ba tuổi th́ Nguyễn Danh Dương qua đời khi vừa sấp sỉ bốn mươi. Dương chẳng những là đường đệ mà c̣n là bạn thân của La Sơn Nguyễn Thiếp, sớm biết mệnh ḿnh nên đă gửi gắm con với phu tử. Thức về ở trại Bùi Phong hai năm trước khi Phu tử mang Toàn Nhật về nuôi. Cùng cảnh côi cút nên Thức thương Nhật như em ruột ḿnh.
Hai anh em khác hẳn nhau. Nhật to cao dềnh dàng, vai ngang, ngực nở, chân đi thoăn thoắt. Trái lại, Thức vừa tầm, dáng thư sinh, lúc nào cũng chậm răi như dè sẻn sức lực. Mặt gân guốc, mũi hếch, hàm râu quai nón của Nhật dẫu che được đôi môi trề ra như chế diễu nhưng không làm giảm chút nào nét nghịch ngợm trong khóe mắt. Phần Thức, Thức lúc nào cũng trang nghiêm và chừng mực. Gương mặt xương xương khiến đôi mắt Thức lơm sâu dưới cặp lông mày xếch lúc nào cũng xa xôi, và có ǵ như lo lắng, như dọ hỏi. V́ thế, ai mới gặp cũng cảm thấy có một khoảng cách không vượt qua được. Nhưng thật ra, khi gần gũi, nét cương nghị qua cặp môi môi mím trên chiếc cằm bạnh chẳng qua là cái vỏ che đậy một tâm hồn chồng chất bức xúc.
Hồn nhiên, nên Toàn Nhật dễ nông nổi, phản ứng rất nhanh và mạnh. So với Nhật, Thức có vẻ trầm tĩnh. Nhưng sự trầm tĩnh ấy không khác gi cơn sôi riu riu của loại nham thạch đang đợi lúc bùng lên lửa đam mê của một hỏa sơn ẩn ngầm trong đất đá. Cơn sôi ấy càng lâu, sự bướng bỉnh bốc thành thứ ánh sáng đùng đục đậu vào khóe mắt khiến nét mặt Thức mang cái vẻ ngang ngạch thách thức.
Học được với Phu tử mười năm, Thức xin phép được xuống Yên Vĩnh cách Bùi Phong hai mươi dặm, về sửa sang lại ngôi nhà của tổ phụ, ngày ngày đi cầy theo gương Hứa Hành đời Chiến Quốc. Dịch sách Tiểu học, rồi Tứ Thư, Ngũ Kinh sang tiếng Nôm, Thức dậy học mỗi tối cho đám trẻ, nhất định không nhận quà cáp thù lao, lấy cớ rằng cái học với Thức không dùng để đi thi ra làm quan được. Thức thường bảo học cốt là hiểu lư hiểu nghĩa, viết là để giao dịch, để ghi lại lời hay ư đẹp, nên Nôm hay Hán đều được. Chữ Nôm dựa trên thanh âm gần gũi cách nói, tất dễ hơn nên ai cũng có thể học. Thức lạc quan, cho rằng như thế sẽ đông người biết chữ, rồi thêm lời thêm ư, biết đâu chữ Nôm một ngày kia sẽ chẳng thay hẳn chữ Hán. Ít lâu sau, rất nhiều người đến học với Thức, già có trẻ có, tiếng nổi lên như cồn khiến những ông đồ cả trấn Nghệ x́ xào dè bỉu « nôm na là cha mách qué ».
Thức bảo học tṛ tập viết bằng cách chép lại những câu ca dao dưới dạng lục bát. Thức lại đưa cho Nguyễn Du xem năm ngoái, dịp Du về Nghệ, lên ở ĺ trên trại Bùi Phong cả tháng. Du vốn là con Nguyễn Nghiễm và hiện đang ở Thăng Long với anh là Nguyễn Khản. Thuở ấy, Du mới mười bốn mà đă nổi tiếng hay thơ, cứ trầm trồ khen thơ lục bát có phần uyển chuyển phóng túng hơn loại Đường luật Cổ thi thường được ngâm vịnh trong giới người có học.
Lúc đó, Khản như cánh tay của Chúa Trịnh Sâm, giữ chức Tả thị lang kiêm Bồi tụng. Trước lời ra tiếng vào của đám nho sĩ xứ Nghệ, Du sui Thức bầy tỏ chí ḿnh. Thức làm ba bài thơ tựa là Tam đoạn tự khải. Tháng sau, có giấy bắt Thức lên hầu quan. Hoàng Tế Lư ẩn mặt, sai Nguyễn Hữu Chỉnh phân xử lời tố cáo Thức có ư định làm loạn. Chỉnh vời Thức vào, cố ư bắt Thức đợi nửa ngày, giọng khinh bạc, thủng thỉnh:
- Việc quan như là trông con mọn, cái nọ xọ cái kia, phiền ông chờ lâu !
Thức trầm tĩnh :
- Quan như phụ mẫu, chúng tôi nào dám kêu ca, miễn cứ công minh mà sử th́ dân hèn chúng tôi đội ơn.
Chỉnh vờ nổi nóng, tay vỗ bàn, miệng gằn giọng:
- Mới mở mồm mà đă chê rằng quan trên không công minh à !
-......
- Bài thứ ba trong Tam đoạn tự khải, anh viết : « Ngoảnh trông phương Bắc thôi khiếp sợ. Ngước mắt về Nam gió đến tay » là ư ǵ ? Phương Bắc có Vua, có Chúa. Phía Nam th́ giặc Tây Sơn vừa ngược ngạo tự ḿnh xưng đế xưng vương, thế có phải là...
Thức ngắt lời Chỉnh, chĩnh chạc :
- Tŕnh Quan lớn, ngài tiếng tăm văn vơ, thừa hiểu là b́nh thơ luận nghĩa mà chỉ trích ra hai câu trong một bài th́ muốn gán thế nào cũng được, kẻ tiện dân này chỉ mong ngài không nghe tiếng dèm pha. Ba bài tự khải nhằm nói tại sao kẻ hèn này lại thiên về chữ Nôm chứ không lệch sang chữ Hán. Vậy th́ Bắc ư chỉ Trung Quốc, c̣n Nam th́ cứ kể là từ mũi Nam Quan trở ra.
- Người quân tử không thiên lệch...
Thức biết ḿnh đă chiếm thượng phong, cố dấu ngạo ngễ, cười rồi nhẹ nhàng:
- Không quân tử, thưa Quan lớn, là phạm tội ư ? Thế c̣n bài Quách lệnh công phú để ca ngợi Quách tử Nghi đời Đường bên Trung Quốc đă nổi tiếng khắp Bắc hà, rồi đến bài thơ khẩu khí vịnh Cái Trống đều do chính Quan lớn làm cũng là bằng chữ Nôm, liệu có thiên lệch ǵ không ?
Thức ngưng nói, nh́n Chỉnh rồi nhẩn nha :
- Hơn nữa, chẳng có cái tội trạng nào là cái tội không quân tử. Có tội ấy chắc bàn dân thiên hạ thấp cổ bé miệng không có chỗ mà sống được nữa !
Chỉnh sượng sùng, nhẹ giọng :
- Sao không đi thi rồi làm quan mà giúp đời ?
- Quân tử cốt lập chí, sau mới đến công danh. Thời này nhiễu nhương mà chỉ tính đến công danh tư riêng th́ chắc cho chính ḿnh cũng chẳng bền, nói ǵ đến cứu giúp được ai ! Kẻ tiện dân này chỉ mong yên thân đi cầy ruộng, rồi bơ bẽ chỉ dẫn cho dăm người cầu học vài chữ thôi.
Chỉnh lạnh lùng cắt ngang, cấm Thức không cho dậy quá mười học tṛ trong mỗi buổi dậy học, và bắt chỉ được quanh quẩn trong vùng hai huyện Thanh Oai, Thanh Chương. Sau chuyện đối đáp với Chỉnh trong chuyến hầu quan trên trấn, Thức càng được tiếng, bỏ một nửa ngày cầy để dậy thêm hai buổi mỗi bữa, học tṛ đông đến độ Thức phải từ chối dậy một số người đă lớn tuổi.
Du nói với anh, rồi Khản nhân danh là đồng môn với Nguyễn Thiếp hỏi quan Hiệp Trấn về việc Thức. Lúc ấy Tế Lư nể mặt mới ra lệnh cho cống Chỉnh băi cái lệnh cấm cản, lại c̣n sai mang lên tết Thiếp mười quan tiền, sáu đoạn nhiễu, hai cân chè Thái Nguyên và nửa tạ gạo. Nguyễn Thiếp tránh không tiếp, và dặn Đặng-thị từ chối không nhận bất cứ một thứ ǵ.
*
Khoảng cuối giờ Th́n, một chiếc xe ḅ lọc cọc ngừng lại trước dăy nhà phía phải giành để tiếp khách trong tư dinh Hoàng Đăng Khoa, con trai cả của Huy quận công Hoàng Tế Lư và công chúa Ngọc Tĩnh. Hoàng công tử có tiếng là khéo léo, không chính thức nhận một chức vụ ǵ trong phủ Chúa, nhưng thường giúp cha trong công việc giao dịnh nên biết khá nhiều chuyện chính sự cũng như mọi đường ngang lối tắt lắt léo nơi cửa quyền ở chốn kinh kỳ. Khác với đám thượng lưu trẻ tuổi chốn đô hội thường đắm ḿnh trong những chuyện phù phiếm, những oái oăm chốn hậu trường của quyền thế, và nhất là những dịpï ăn chơi thâu đêm suốt sáng hầu như mỗi ngày mỗi có, Đăng Khoa ít giao thiệp với người cùng lứa, không huênh hoang, không hợm hĩnh, và thường tự nhún ḿnh, lúc nào cũng giả tảng như không để ư đến ngoại vật.
Chiếc xe ḅ chất đầy đủ loại thực phẩm, từ gạo muối cho đến tương, cà, ca,ù thịt. Sau khi chất rỡ xong, người gia bộc cỡ ngoài sáu mươi kính cẩn:
- Cậu chúng con xin mời đức Phu tử và các cậu hạ cố dùng bữa cơm trưa hôm nay th́ thật là bảo giá.
Trọng Thức bật cười trước lối nói chữ nào là hạ cố nào là bảo giá, trả lời :
- Cứ cho người đến dẫn lối, chúng tôi sẽ xin qua hầu công tử.
Sau khi vào tŕnh Phu tử để khu xếp, Thức rủ Nhật đi dạo quanh tư dinh Hoàng công tử. Ṿng từ mé phải họ bước vào một khu vườn nh́n ra hồ Trúc Bạch. Bên cạnh con đường trải sỏi trắng là một cái ao đào rộng độ hai sào vuông. Trên bờ ao, một cái cầu vồng bắc vắt vẻo dẫn đến căn gác vuông vắn mỗi bề độ hai mươi thước ta, tường bằng gỗ sơn xanh nhạt, mái ngói đỏ mầu gạnh cua, cửa vào có đề hai chữ Khiêm Các, ư chỉ sự khiêm nhường. Chung quanh ao trông đủ loại cây cỏ rất lạ, có loại cây toàn lá mầu đỏ cam rực rỡ, lại có loại không có lá mà chỉ toàn hoa đài trắng muốt đến độ nh́n cứ tưởng như trong suốt. Bước vào các, mùi gỗ quí thơm bay thoang thoảng. Vạch những bức màn lụa mầu ngà có viền kim tuyến và thêu những bông cẩm chướng sặc sỡ nh́n ra, một đàn hàng chục con công ven bờ ao bên kia đang giang cánh múa, mầu lông óng ánh dưới nắng vàng. Trên mặt ao, dăm ba tảng đá mầu hồng nhô lên trên những tàn sen c̣n đọng những hạt sương lóng lánh như kim cương.
Thức ngồi xuống tràng kỷ, nh́n quanh, miệâng bâng quơ :
- Cứ xem cảnh sắc thế này th́ mồm nói khiêm nhưng bụng lại chẳng nhường ai một chút nào.
Nhật ṿng qua cái sập gụ đen tuyền dầy đến ba tấc và rộng đủ để sáu người ngồi xếp bàn tṛn, bước về phía giá gươm rồi táy máy rút một thanh ra khỏi vỏ. Lưỡi gươm lạnh tanh lóe sáng. Toàn Nhật vung lên một đường, nâng thanh gươm lên ướm nặng nhẹ, suỵt soạt trầm trồ.
Một lát sau th́ gia nhân đến mời. Thể theo ư Phu tử, ba người qua dăy nhà phía trái nơi Khoa ở. Thức cung tay chào, rồi chỉ qua trung niên dáng gầy g̣ :
- Thưa Hoàng tướng công, ông đây là Nguyễn mạnh Thuyên, trưởng nam của thầy chúng tôi. Thầy tôi vẫn c̣n mệt không qua bồi tiếp tướng công được, để anh chúng tôi sang hầu tướng công...
Ngưng lại, Thức nh́n thẳng vào mắt Hoàng Đăng Khoa, giọng có chút châm biếm:
- ... và nghe lời dậy bảo phải ở đâu, làm ǵ, gập ai, và được đi những đâu...
Khoa hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh ngay, tươi cười trả lời :
- Những việc ông anh vừa nói là đều sẽ do cha tôi sắp xếp, tôi phận con cháu nào có cái quyền ǵ mà dám xen vào. Nay, ta phải đợi để Phu tử thật khỏe đă, gập cha tôi là mọi việc đâu vào đó, chẳng có ǵ phải bất tất.
Tuy mồm chối trách nhiệm, Khoa vẫn khéo nhắc đến quyền uy của cha ḿnh. Thức c̣n bực trong bụng, định tâm tiếp tục vặn hỏi lại cái chuyện bị lính canh cấm ra khỏi cổng sáng nay, nhưng Thuyên khẽ gạt tay, lên tiếng:
- Ngài dậy như vậy, chúng tôi rất đội ơn. Cha tôi nay già cả, sức khỏe có sút, chỉ cầu xong việc là xin về ngay, chẳng ḷng nào dây dưa ở lại kinh kỳ này lâu la làm ǵ. Chẳng hay khi nào th́ Chúa vời cha tôi vào cho gập ?
- Việc này tôi cũng lại không biết. Nhưng tôi sẽ bẩm với cha tôi chiều nay để Phu tử khỏi sốt ruột.
Bữa ăn vẫn có phần gượng gạo tẻ nhạt mặc dầu Đăng Khoa cố vui vẻ chào mời. Thuyên ít nói, lời đúng mực, không thừa không thiếu. Thức lạnh lùng. Khoảng đầu giờ Mùi, lăo gia bộc thích nói chữ chạy vào th́ thào. Khoa đứng dậy, miệng nói:
- Cha tôi đến !
Một người đàn ông giữa khoảng ngũ tuần vén bức chướng mé phải gian nhà khánh nhanh nhẹn bước vào. Người đó cao hơn b́nh thường dễ đến nửa cái đầu, miệng rộng, môi mỏng, vai chữ điền, tóc điểm bạc búi ngược, lưỡng quyền gồ cao làm trồi lên cặp lông mày rậm trắng, xếch đến cuối chân mày rồi đứt đoạn bất ngờ xụp xuống. Đợi cho mọi người ṿng tay thi lễ xong, người đó mới sẽ nghiêng ḿnh, nói:
- Chắc Phu tử c̣n mệt, tôi chưa được diện kiến nên xin gửi lời chào, và mong Phu tử chóng khỏe để tiện thu xếp ít công việc nhà Chúa.
Quay sang Khoa như dọ hỏi, người đó đảo một ṿng mắt nh́n mọi người, tiếp:
- Phu tử là khách của Chúa, c̣n các vị đây là khách của cha, con phải chu đáo mọi sự.
Khoa hiểu ư, khẽ nhích lên rồi giới thiệu tên từng người. Thuyên ṿng tay vái miệng nói « Kính chào quan Chánh dường ». Đến lượt ḿnh, Toàn Nhật cũng bắt chước làm như vậy. Hoàng Tế Lư khẽ nhếch mép rồi bước một bước đến nh́n tận mặt và hỏi gốc gác. Nghe Nhật kể tên ông ngoại họ Vơ ở Thạch Hà, Lư vỗ vào vai, cười bảo « th́ ra cũng con ḍng cháu giống ! ». Khi Khoa giới thiệu Trọng Thức, Lư thân mật :
- A, hiền điệt là hậu duệ của Nguyễn Danh Dương, bạn đồng khoa với ta.
Đến trước mặt Thức, Lư nắm lấy tay, vừa lắc vừa nói, giọng kẻ cả:
- Khí tượng thế kia, tuổi trẻ thế này sao lại nổi tiếng là ẩn sĩ được nhỉ? Gần ta ít lâu, biết đâu cháu lại chẳng đổi ư. Làm tài trai, phải như chim Bàng chim Phượng, cớ ǵ lại sè sè chịu bay như đám chim sẻ đi t́m vài hạt thóc thừa chốn quê mùa ?
Trong đầu Trọng Thức chợt lóe lên h́nh ảnh những con sẻ t́m bắt cào cào châu chấu phá hại mùa màng đang nháo nhác bay lên khi một đàn quạ sà xuống. Bấm bụng, Thức nghiêng ḿnh vái, giữ một khoảng cách với sự thân mật của Tế Lư, khiêm tốn :
- Xin đa tạ quan Chánh dường, văn sinh tài hèn đức mọn, lúc nào cũng áy náy chỉ sợ làm hổ tiếng phụ thân, không dám nhận hai chữ ẩn sĩ từ những lời đồn đăi không đáng làm bẩn tai quân tử.
Sau khi Trọng Thức nhắc lại câu ḿnh đă hỏi Đăng Khoa buổi sáng, Hoàng Tế Lư nghiêm trang nói :
-Khách của nhà Chúa là thượng khách, muốn đi đâu th́ đi. Các vị là khách của ta cũng vậy. Trong kinh, từ đầu giờ Tuất đến cuối giờ Dần giới nghiêm. Tuy thế, nếu cần đi, phủ Chúa sẽ cấp cho Phu tử giấy phép, cứ đưa ra tất lính tráng chấp lệnh ...
Hắng giọng, Tế Lư chẳng những tảng lờ chuyện cấm ra khỏi cửa mà c̣n kèm chặt thêm đám khách, tiếp :
- ... cũng gửi lời ta xin Phu tử tha lỗi cho bọn lính tráng không biết khu sử buổi sáng nay. Kinh đô hiện chưa hẳn yên nên ta sẽ phái lính phủ Chúa đến bảo đảm an ninh cho Phu tử và gia nhân. Đăng Khoa tạm nhận trách nhiệm tiếp đăi Phu tử cho đến khi ta xếp đặt để Phu tử đến ngụ tại dinh Khương Tả hầu.
*
Suốt một tuần lễ từ ngày đến Thăng Long, Phu tử đợi Chúa vời, nhưng không tin tức ǵ. Sốt ruột, Phu tử nhờ Khoa chuyển lời ḿnh đến Hoàng Tế Lư là người ra vào Chính-phủ hàng ngày.
Mặc dầu Khoa hết sức chu đáo, Phu tử và gia nhân vẫn mong sớm được dời tư dinh của Khoa, nơi tạm cư từ ngày bước chân đến Thăng Long. Khoa luôn luôn tỏ ra thân mật để khách thoải mái, song trừ Toàn Nhật ra, ai ai cũng cảm thấy mất tự do chốn cửa quyền, lúc nào cũng có lính tráng ḍm ngó và người ăn kẻ ở thưa gửi. Chỉ riêng có một ḿnh Nhật gần gũi Đăng Khoa hơn mọi người, phần v́ hồn nhiên, phần v́ thích bàn chuyện vơ nghệ. Buổi tối hôm đó, Khoa vào vái thăm Phu tử rồi thưa :
- ... Cha văn bối nhắn mời Phu tử giờ Mùi sáng ngày kia vào Nội phủ.
Sáng ngày Phu tử vào Nội phủ, một đội sáu người lính thuộc đội Hậu Dũng, quần áo sắc vàng nhạt, cổ nẹp đỏ, đến với hai người phu khiêng kiệu. Khi Phu tử vẫy tay gọi Thức và Nhật đi theo, một người xưng là thư lại cúi đầu cung kính nói là có lệnh chỉ đưa một ḿnh Phu tử vào Thập Tự cung ở Chính -phủ.
Sau khi Phu tử lên đường, Nhật rủ Thức ra phố. Đến cửa dinh, hai người nghe tiếng gọi giật :
- Có nhớ tôi không ? Tôi đến chào thầy và các vị đây!
Nh́n lại th́ ra Bằng Vũ, một người bé nhỏ, dáng thư sinh, cũng người huyện La Sơn, xưa có học với phu tử ở Anh Đô. Vũ xưa thi hỏng kỳ đệ tam trường, nay lo việc giấy má sổ sách, làm từ hàn cho đội Trung - Kính, đội lính bảo vệ an ninh cho Tam cung Ngũ phủ. Vũ vui vẻ xin làm người đưa đường cho Thức và Nhật.
Từ dinh Đăng Khoa đi xuống phía Tây Nam chừng hai dậm là hồ Thủy Quân, giữa hồ có xây một cái tháp năm tầng, và tiếng truyền rằng mỗi khi có quốc biến th́ con rùa đă sống bốn trăm năm trong hồ nghiến răng kèn kẹt báo cho người hàng phố. Lần sau rốt, vào tháng sáu năm Mậu Tuất cách đây hai năm, lúc Đàng ngoài hạn hán, giá gạo cao vụt lên và người chết nằm đầy đường th́ tiếng rùa nghiến răng nghe đến tận miệt Ô Trường Bản. Dân quê hai tỉnh Thái B́nh, Thanh Hóa trốn đói ṃ lên Thăng Long có đến hàng vạn. Họ tự tiện cắm dùi trên công thổ phía Đông Nam, suốt bờ sông từ Vị Hoàng cho đến Hà Đông. Triều đ́nh t́m đủ cách đuổi dân lưu cư nhưng cho đến nay vẫn không được.
Ở kinh kỳ, người đi như mắc cửi. Trên dăm trục chính nối những cửa ô, mặt đường rộng đủ cho năm chiếc xe ngựa qua lại. Từ hồ Thủy Quân đi xuống độ trăm thước là nơi người Kẻ Chợ buôn bán. Ba mươi sáu phố ăm ắp người chen vai thích cánh, mỗi phố là một mặt hàng : nào là tơ lụa, đường phèn, gương, lược, trống, kèn, gỗ.. đủ loại. Người ở kinh diêm dúa hơn người thôn quê, đàn ông mặc áo the, chân đi dép, đàn bà th́ trên áo tứ thân, dưới là váy lĩnh, có kẻ đầu vấn tóc, có người che khăn mỏ quạ. Các bà ở mặt tiền những cửa hàng rộng không quá năm, sáu thước vuông, miệng ríu rít chào khách qua đường. Tiếng mặc cả, tiếng dè bỉu, và thỉnh thoảng lại có cả tiếng căi cọ chửi bới oang oác bên tai. Ba người đi hết phố này sang phố khác, ḥa ḿnh vào cái ḍng sinh lực cuồn cuộn cứ chực như tràn ứ ra trên lề đường. Quá giờ ngọ, họ kéo nhau vào một quán ăn khá rộng răi sang trọng ở phố hàng Mành. Vũ phất tay gọi rồi bảo :
- Nhất đất này đấy, và phải nói để hai vị biết, bún chả th́ tuyệt khéo.
Cuối pḥng ăn, một đám gần hai mươi người ngồi choán đến năm bàn, bàn nào cũng đầy những cút rượu. Vũ đứng dậy đến cung kính chào một nam nhân ngót ngét ba mươi tuổi, mày rậm, mũi hếch, mắt như mắt cú đỏ sè, ngồi nghênh ngang giữa đám thủ hạ. Sau đó,Vũ lại rón rén về chỗ, th́ thào vào tai Thức : « Ăn nhanh rồi chuồn, bác ạ ! ». Trước thái độ của Vũ, Thức và Nhật hơi ngạc nhiên, song chưa tiện hỏi. Cả ba lẳng lặng ăn, nhưng chưa hết bữa th́ đám người trong góc ồn ào đứng dậy, gươm đao nghe loảng xoảng. Một người mảnh khảnh, mặt xanh mướt, nói với chủ quán :
- Ghi sổ lại. Lần sau trả. Bây giờ có việc công phải đi gấp.
Ông chủ quán vâng dạ, mặt méo xệch, đầu cứ gật gù cúi xuống. Nam nhân mắt cú đứng dậy, miệng ngậm cây tăm xỉa răng, tay cầm chiếc roi cá đuối, phất vút một cái vào không khí, rồi ra lệnh :
- Đi thôi !
Qua chiếc bàn có bọn Bằng Vũ, người ấy ngừng lại, hất hàm :
- Những ai đấy ?
Vũ đứng dậy, cười cười, vái rồi giới thiệu. Nam nhân lại hất hàm, nh́n lên, khinh khỉnh :
- À, khách của Huy quận công à !
Tay vút roi vào khoảng không, người ấy chẳng thèm nh́n ai, khinh khỉnh :
- Có muốn xem đốt đuốc người không ?
Nói xong, người ấy bước ra. Thấy lạ, Toàn Nhật ṭ ṃ đ̣i đi xem. Ba người liền ăn vội, trả tiền, rồi ra theo. Bọn người ồn ào bước đến đâu th́ đám đông dân chúng dạt ra đến đó. Họ đi ṿng về phía Ô Cầu Giấy, đến một khoảng đất trống áp vào ŕa sông chung quanh có quây cót. Lính canh chia làm hai lớp vây ṿng, ai nấy quấn khăn che mặt lại, gươm giáo sáng ḷe. Từ dốc đê, không ai nh́n thấy ǵ sau cót, nhưng nghe văng vẳng đâu đây có tiếng nỉ non khóc lóc. Nam nhân mắt cú vọ vẫy tay, đám thủ hạ khuâân những thùng dầu đă xếp sẵn xung quanh cót đổ tưới lên và ném những cành cây khô vào. Tiếng khóc tiếng kêu lúc càng inh ỏi. Những tiếng thét tuyệt vọng rít lên, rồi một người đục cót chui ra. Tên lính đứng gần lao một ngọn thương. Người ấy tru lên, tay dơ cao, bàn tay trụi không có ngón nào, với như cào vào khoảng không. Nam nhân mắt cú khinh khỉnh châm đuốc rồi thẳng tay ném vào. Lửa bùng lên khắp ngả. Tiếng rú, tiếng kêu, tiếng khóc nhất lượt ̣a lên nghe đinh tai nhức óc. Toàn Nhật hiểu ra, người nóng rừng rực như chính ḿnh bốc lửa, lồng lên, xô lại gào :
- ... Không giết họ thế được ! Ngừng lại!
Vũ hốt hoảng nắm Toàn Nhật lại nhưng không kịp. Nam nhân mắt cú miệng mím lại, mũi hếch lên, vung roi quất vào đầu Nhật. Chiếc đầu roi chưa kịp giựt về th́ Nhật đưa tay bắt lấy thân roi, rồi ṿng tay như cuộn lại, lấy tấn bất th́nh ĺnh dận xuống. Nam nhân ngă chúi mặt xuống đất, bỏ roi, tay kia rút kiếm, gầm lên :
- A, giỏi thật ! ... bay bắt lấy nó cho ta ...
Đám thủ hạ tay đao tay kích ùa ra vây Nhật vào giữa, hầm hè như muốn nuốt tươi ăn sống. Đúng lúc đó, tiếng Đăng Khoa cất lên :
- Không ai được chạm vào khách của quan Chánh dường !
Đội lính Hậu Dũng áo vàng lúc ấy gươm đă tuốt trần, xông vào làm một ṿng tṛn quây quanh Toàn Nhật. Khoa tiếp :
- ... Chạm vào khách là chạm vào chủ. Kẻ nào xúc phạm, theo luật, sẽ bị tội lăng tŕ !
Quay sang nam nhân mắt cú, Khoa ṿng tay vái :
- Xin Đặng tướng công thứ cho ! Khoa này chịu mọi trách nhiệm.
Mùi thịt người lúc ấy xông vào mũi khét lẹt. Tiếng kêu tiếng khóc vẫn rú lên từng chập nhưng dần dần thưa đi. Khói những cây đuốc người bốc lên đen cả bờ sông Nhị. Nước vẫn cứ xiết trong ḷng sông lúc nào cũng quằn quại những ḍng lũ màu đỏ như máu. Nam nhân mắt cú, tên là Đặng Mậu Lân, em ruột của Đặng thị Huệ, hầm hè :
- Rồi sẽ biết tay ta ! Để xem, để xem ...
Hôm sau, dân Thăng Long hớn hở : tiếng đồn là nhờ có Chúa chu cấp lương tiền, trại hủi ngoài Ô Cầu Giấy đă dọn đi về phía Ninh B́nh. Mùi thịt phảng phất chẳng qua là mùi thịt mấy con lợn nái ngả ra cho bữa bún chả họ ăn mừng với nhau trước khi di cư. Tuy tiếng đồn thế, những người bị bệnh hủi đang luẩn quẩn ăn mày ở kinh kỳ ngày hôm sau vẫn trốn tiệt.
*
Không biết công việc nhà Chúa thế nào mà sau ngày gặp quan Chánh dường ở Thập Tự cung, Phu tử ngày ngày tư lự ra vào một ḿnh. Ngô th́ Nhậm hiện dang trên Sơn Tây, hẹn về gập Phu tử nhưng chưa cho biết ngày tháng. Ngay cả khi mọi người đă chuyển ra ở tư dinh Khương Tả hầu, Phu tử im lặng cả ngày, vẫn tránh không gặp bất cứ ai, thường trằn trọc, đêm dậy ngồi hí hoáy viết lách, nhưng chỉ độ mươi hôm sau lại đem ra xé hết. Nét lo âu khiến Phu tử già đi, và sự cô đơn trĩu nặng đèo vào tuổi tác khiến lưng Phu tử như gù thêm xuống.
Đám lính canh cho Phu tử thay đổi luôn luôn, nay th́ là đội Hậu Hùng, mai lại Tiền Dũng, rồi lần lượt nào là Trung Kính, Tả thị nội, Tiền Ninh. Trong đám lính canh luôn luôn có một người thư lại đi kèm. V́ thế, Bằng Vũ lại có dịp lân la gần Phu tử.
Một tuần sau hôm dọn đến dinh Khương Tả Hầu, Đặng Thị Mai là cháu gọi Đặng-thị bằng d́ hớt hải đến chào. Thức ngạc nhiên nh́n nét lo âu trong mắt Mai, khẽ đẩy cửa để Mai vào nói chuyện với Phu tử. Tối hôm ấy, Phu tử bảo Toàn Nhật rời khỏi kinh kỳ, tạm lên phố Hiến một thời gian. Nhật gặng hỏi, Phu tử chỉ bảo chính Mai sợ anh ruột ḿnh là Lân sẽ t́m cách hăm hại Nhật. Đăng Khoa biết chuyện nhưng không nói ǵ, hẹn sẽ lên thăm Nhật và viết thơ gửi gấm cho một người bạn quen trên phố Hiến, rồi đưa một tờ đặc chỉ cho Toàn Nhật xuất nhập Thăng Long bất cứ lúc nào.
Đặng Mậu Lân xưa nay hung hăn, cậy vào chị là Đặng thị Huệ hiện đang được Chúa sủng ái, chẳng chịu thua kém một điều ǵ với ai. Lân hống hách, cách ăn kiểu mặc bắt chiếc như Vua như Chúa, không chỉ bàn dân mà ngay cả đám quan trong triều hễ gập là tránh. Thấy đàn bà con gái có nhan sắc là bất kể bố mẹ chồng con, Lân cướp về tư dinh. Thỏa măn xong tính dục, Lân c̣n quái ác khi th́ rạch mặt, khi th́ cắt đầu vú, khi lại tọng cán gươm hay đầu côn làm rách toạc tử cung, hềnh hệch cười : « Cho người đẹp giữ chút dấu vết kỷ niệm để nhớ ta nhé ! ». Điều tiếng gần xa khắp kinh kỳ, bàn dân gọi Lân là hung thần mắt cú, kêu van đủ chốn nhưng chẳng ai làm ǵ được.
Mất mặt với đám lính tráng và thủ hạ về chuyện Toàn Nhật giật roi, Lân căm giận, giữa đường về châm đuốc ném vào nhà bàn dân thiên hạ. Nhà cháy nhưng chẳng một ai dám dập lửa, phải đợi Lân đi khỏi. Lần này chuyện gây ra lại giây vào khách của Hoàng Tế Lư. Khổ một cái là Lư và Huệ nay liên kết với nhau, nên Lân không thể qua tay chị để trả thù Toàn Nhật. Nghe Lân kể, Huệ chặn ngay :
- Mày vung tay đánh, người ta chỉ đỡ, th́ có ǵ mà hậm hực ! Người ta không kiện cho là may.
Đặng Thị Huệ rất khéo miệng, và nhất là cực kỳ nhậy bén đoán được ư của người đối thoại. Nàng ít khi phải nói không với ai, v́ lúc nào không muốn th́ nàng đă khôn ngoan chặn miệng trước, cho nên ít ai nói được chuyện ǵ không hợp ư nàng. Dù ngày đêm ở bên cạnh Trịnh Sâm, nàng rất ít ra mặt với chúa nơi đám đông, luôn luôn tỏ ra ḿnh thờ ơ với quyền bính. Nàng thường nhẹ nhàng trả lời với những kẻ đến mua chuộc rằng : «... Những việc quốc sự, xin cứ tâu thẳng với Chúa, hoặc với Quốc cửu là Hoàn quận công. Phận đàn bà, tôi chỉ biết chăm lo công việc Hậu cung cho Chúa mà thôi ». Trịnh Sâm nghe thấy vậy nên rất quí mến, có việc ǵ tế nhị đều tâm sự cho nàng nghe.
Cũng chính thế cho nên việc Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản và Huân quận công Nguyễn Phương Đĩnh cách đây sáu năm t́m cách hăm hại Hoàng Tế Lư đă đến tai nàng. Lúc ấy Lư đă cho vợ ḿnh là công chúa Ngọc Tĩnh cùng hai con về Thăng Long ở làm con tin để tránh sự ngờ vực của Trịnh Sâm về ư định thoán ngôi Chúa người ta vu lên. Biết Huệ được sủng ái, Ngọc Tĩnh kết thân với nàng, hai bên tâm đầu ư hợp, ngay đêm thủ thỉ chuyện ra chuyện vào. Sáu năm ṛng, mỗi lần Lư về thăm vợ con đều có mang quà cáp vào phủ Chúa chào Huệ. Khi Huệ sinh thế tử Cán, Lư dâng mừng ba mươi cái ngà voi cùng sáu bộ xương hổ, không kể gấm vóc lụa là xếp từng thếp cao đến đầu người. Chính Huệ đă khuyên công chúa Ngọc Tĩnh bàn với Lư để xin Chúa cho về kinh, rồi cũng chính Huệ thay lời Ngọc Tĩnh kêu với Chúa cho Chúa chấp thuận. Trịnh Sâm đa nghi, nhưng biết Lư về kinh th́ thân cô thế cô, không c̣n việc ǵ phải sợ, nên đồng ư. Về Thăng Long được hai tháng, Lư xin dâng tư dinh của ḿnh làm nhà riêng cho thế tử Trịnh Cán. Chúa rất ưng ḷng, lại có Thị Huệ vun vào, nên ngày càng quí Lư, cho Lư ra vào Nộïi phủ như đám hoạn quan, có việc ǵ cũng hỏi. Đầu năm sau, Lư đẩy được Khản ra làm Hiệp Trấn Sơn Tây, rồi được phong làm Chánh dường quan, lo lắng toàn bộ chính sự trong phủ Chúa.
Từ ngày Phu tử đến kinh, Trịnh Sâm lại mắc chứng cũ khiến mọi sắp đặt triều chính phải hoăn hết. Nhận được chỉ vời, Lư vội vă vào cung Vọng Hà, nơi Chúa ngự. Qua những hành lang lúc nào cũng rủ chướng để tránh gió, Lư theo bước Thản-Trung hầu. Đến Trữ Nguyệt viện, Thản Trung lên tiếng báo. Một lát sau, cánh cửa gỗ lim trạm trổ long ly qui phượng mở ra, và một thị nữ cúi ḿnh chào. Lư hơi ngạc nhiên khi thấy Huệ ngồi trên tràng kỷ, miệng nói , tay chỉ : « Xin miễn lễ ... Mời quan Chánh dường ngồi đây ».
Đặng thị Huệ chạc trên ba mươi, dáng thanh thanh, da ngăm ngăm sắc hồng quân, mũi dọc dừa, miệng hơi mỏng nhưng đài các, đầu đội ngọc miện. Mạêc một bộ xiêm màu xanh biếc, lưng đeo giải vàng có điểm những hạt ngọc hồng to bằng ngón tay cái, nàng ngước cặp mắt đen lay láy h́nh lá dong nh́n Lư, hỏi :
- Bệnh t́nh của Chúa ra sao ?
- Khải Vương phi, Chúa lại đau bụng từ ba hôm nay, ăn uống không được ! Chắc là bệnh cũ nên Sùng công cùng với chư quan thị dược đă đồng ư dùng lại toa thuốc hiệu nghiệm năm trước. Nay bệnh lúc tăng lúc giảm, nhưng mạch Xích đă phục, c̣n hai mạch Quan, Thốn th́ khi yếu khi mạnh, chưa biết thế nào ?
- Công việc với La Sơn phu tử đến đâu ?
- Chúa chưa tiếp Phu tử nên công việâc c̣n đó, chưa nhất quyết ǵ cả ?
- ư Phu tử thế nào quan Chánh dường có rơ không ?
- Phu tử c̣n xem xét, và sẽ tự ḿnh khải thẳng với Chúa.
Vương phi ban cho quan Chánh dường một chén nước trà Tĩnh Ngọa. Khi Tế Lư cúi xuống uống th́ tai nghe thấy hai lần tiếng chén trà của Vương phi để lên chiếc khay Bạch Ngọc ngân lên nghe như tiếng đánh chuông.
*
Sau khi Lư và Thản Trung lui ra, Huệ vào phía sau cung Vọng Hà. Ngồi lên vương sàng, rồi đuổi thị tỳ ra, nàng nh́n Trịnh Sâm đang thiêm thiếp ngủ, với tay xem bát thuốc đă uống cạn. Lấy khăn giấp nước, nàng nhẹ nhàng lau trán Chúa đang nhớp nháp mồ hôi. Sâm tỉnh dậy, hé mắt nh́n Huệ, miệng gượng gạo cười :
- Canh mấy rồi ?
- Xin Vương nằm yên, bây giờ là đầu giờ Tuất, Vương c̣n đau không ?
Sâm chậm răi :
- Bụng vẫn cứ ngâm ngẩm .
Huệ tḥ hai ngón tay chậm chạp kéo giải rút, rồi lẳng lặng nằm xuống, bỏ cả bàn tay vào quần Chúa, đưa lên bụng xoa bóp nhè nhẹ, miệng suỵt soạt :
- Chẳng có sao đâu, cứ thuốc bổ dương có nhân sâm rồi thêm vào một lạng Bắc nhung Miên Huyết Ngưng Sứ với quế tán là cứng cáp ngay thôi.
Nàng khúc khích cười, tay lần sâu xuống dưới, nói :
- Xem nào ! Đă khỏe cho em chưa ?
Vừa cười, nàng vừa hổn hển thở vào mơn trớn tai Chúa. Sâm nhắm mắt, mặt nóng bừng, người như lên đồng, đong đưa theo bàn tay Huệ lúc nhanh lúc chậm. Đột nhiên, Huệ rút tay ra, ngồi dậy. Sâm mở mắt nh́n dọ hỏi. Huệ bật khóc rấm rứt :
- Vương mà mệnh hệ nào th́ em ra sao? Cứ nghĩ đến thôi là em chẳng c̣n thiết một thứ ǵ nữa.
- Ta có bệnh, nhưng đă chữa được một lần th́ sẽ chữa được hai lần, chẳng có ǵ phải lo ...
- Sao lại không phải lo. Thế tử Cán mới lên năm, Vương mà bỏ mẹ con em th́ thân cô thế cô, mẹ con em chỉ có chết mà thôi.
- Đừng nói dại, ta đă nói với nàng là ta đăù định ư. Nhưng việc công không thể hấp tấp, làm ǵ th́ thế nào trăm mắt thiên hạ cũng ḍm vào !
Huệ tỉ tê :
- En biết dạ Vương, nhưng một tay Vương đă khuấy đất trọc trời, việc phế lập tưởng chỉ là chuyện cỏn con. Vương lắm mưu lắm kế, thiếu ǵ cách ! Với lại, em bảo thật, thế tử Tông cũng đă lập bè lập cánh, biết đâu chẳng đợi thời mà lấn tới. Việc ấy,Vương cứ hỏi Tế Lư khắc rơ ... Thôi, chuyện nhà Chúa, Chúa lo, Huệ lại nấc lên, c̣n thân mẹ con em, em phải lo ...
Sâm nghe Huệ nói, hơi chột dạ, nhưng lên giọng, cứng cáp :
- Ta nằm đây nhưng mắt ta thấy hết, tai ta nghe hết.
Nói xong, Sâm kéo Thị Huệ nằm xuống rồi xoay ḿnh lại. Huệ ngồi bật dậy, má đỏ hây hây, lột phăng áo, bật cười khúc khích, lơi lả :
- Em biết Vương khỏe lại ngay mà. Vương thích ǵ nào? Gấu nhé, hay báo nhé ?
- Không, làm báo rồi. Hôm nay ta làm con trăn rừng !
Áp miệng cắn nhẹ vào tai Sâm, Huệ thỏ thẻ: « Hôm ấy tối trời, trăng đi đâu mất chỉ c̣n dăm ông sao mờ, em vào rừng Cúc Phương một ḿnh. Bỗng như có ai bắt lấy bế bổng em lên chạc ba một cái cây. Th́ ra là Vương hóa làm ông trăn, ḿnh to bằng củ chuối mắn, cứ trờn lên trờn xuống, dạng hai chân em rồi kéo chổng kên trời. Em đạp chân lật ḿnh lại, miệng kêu « thôi, cho em xin ...» nhưng ông trăn quấn tṛn lấy em vật ngă xuống. Ông ấy tḥ lưỡi ra,ôi cái lưỡi nóng hổi vừa mềm vừa nhơn nhớt cứ theo những đường cong thân thể em lượn uốn nhấm nháp như người nhắm rượu. Cái lưỡi đong đưa đú đởn khiến em ưỡn người cong lên, tay nắm quàng lấy đuôi ông trăn. Vùng ḿnh xiết lấy em cơ hồ đến nghẹt thở, rồi trời ơi, ông trăn chuyển ḿnh vào ngọ ngoạy ... Em rướn chân, gh́ vào chạc cây, mồm van vỉ, tay cào tay cấu ...».
Quằn quại theo nhịp bàn tay, Huệ hào hển rồi rít lên cho đến lúc Sâm kêu hộc lên một tiếng, để cho vài giọt sinh lực ứa ra như dăm hạt nước mưa vừa lọt qua kẽ dột. Lúc ấy, nàng thở hắt ra, rồi lẳng lặng nằm yên nhếch mép cười trong bóng tối.
*
Ngoài Bằng Vũ, sau này đám khách thường tới dinh Khương Tả Hầu thăm Phu tử phần lớn là những bậc thâm nho chuyên dùng việc ngâm vịnh làm cách tiến thân cầu vinh cầu lộc. Duy có một kẻ may mắn đă sẵn có đủ cả là Côn quận công Trịnh Bồng. Bồng ưa thanh tịch, chán chốn quân quyền, quyết chí t́m đường đạo hạnh, hợp với ư nguyện của Phu tử, nên đôi khi lê la ở chơi cả ngày.
Về phía Vũ, sau khi Toàn Nhật lên phố Hiến th́ chỉ đánh bạn được với Trọng Thức. Tuy hơn tuổi, Vũ vẫn gọi Thức bằng anh, kính trọng về học vấn, nhưng thâm tâm coi Thức chưa đủ kinh lịch rút ra từ cuộc sống. Vũ là ḍng dơi trung thần từ đời Lê Thái Tổ, nhưng gia thế sau cứ lụn dần đi, và nay th́ hầu như bần hàn giống như mọi người sống ở thôn quê, gia đ́nh lấy chuyện cấy cày làm gốc. V́ thế, tiếng Thức noi gương Hứa Hành về làm ruộng, bỏ cả danh vọng, không thi cử hầu mong quan cách khiến Vũ ngấm ngầm tâm phục. Không nói ra miệng, Vũ làm cho Thức hiểu rằng chí ḿnh không phải là đi cầu chút bổng lộc mà c̣n mang nhiều hoài băo khác hẳn giấc mơ của những tên thư lại trong đám lính tam phủ. Vũ vun vào với Thức, cao giọng bảo cái ăn cái mạêc của cả nước là nhờ ở nông dân, những cái nghèo cái đói lại cũng oái oăm đổ vào đầu họ. Chính sự bất công ấy là gốc của những cuộc nổi loạn như loạn Nguyễn Hữu Cầu hay Hoàng công Chất ngày xưa. Gần nhất là năm kia, năm Mậu Tuất, Trần Xuân Trạch cũng dấy quân lên hàng vạn ở khắp trấn Sơn Nam, khiến máu rơi thịt đổ ṛng ră cả năm. Vũ chép miệng: « Rồi cũng lại máu xương của đám đi cầy. Con thầy chùa th́ cứ quét lá đa thôi ».
Một hôm, Vũ dẫn một người tên Đàm Xuân Thụ đến giới thiệu với Thức như là bạn tri âm của ḿnh. Thụ vốn là người được sự tin cậy của thế tử Trịnh Tông, gốc gác cũng từ Nghệ An. Thụ nhắn lời thế tử mong gặp Thức đăi một bữa ăn tối. Cực chẳng đă, Thức nhận lời. Trong bữa ăn có cả Nguyễn Du, v́ Du là em Khản, và Khản lại là thầy dậy học cho Tông. Câu chuyện xoay quanh chính sự. Tông hỏi:
- Theo sấm kư, nhà Chúa chỉ vượng được hai trăm năm mươi năm. Nay đă đến kỳ hạn. Vậy muốn hưng nhà Chúa th́ làm sao ?
Thức ngẫm nghĩ, rồi đáp :
- Muốn có Chúa, tất phải có Vua. Nhà Vua nhà Chúa hưng thịnh có nhau. Vua hưng là do quần dân an cư lập nghiệp mà hưng. Gốc thịnh của nhà Chúa cũng từ ở đó mà ra.
Tông lại nói :
- Cha tôi nay ốm mai đau, nhưng chuyện lập Đông Cung vẫn c̣n bỏ đó. Muốn cáng đáng nghiệp Chúa bây giờ là phải đối đầu với một đám quyền thần đang luồn lách đưa Chúa vào việc phế trưởng lập thứ. Bàn dân thiên hạ sẽ nghĩ thế nào ?
- Thứ mà c̣n thơ ấu th́ lập thứ là tạo cơ hội cho đám quyền thần thao túng. Cứ xem gương những việc trước th́ đó là mầm dẫn đến tai họa. Trong Kinh, đám thần tử cường ngạnh sẽ đâm chém lẫn nhau. Ở ngoài, giặc giă nhân đó lại nổi lên. Theo thiển ư, thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ hiếu, chữ trung để bàn dân trông cậy vào là sớm muộn ǵ rồi chẳng bao lâu ngôi chúa lại về trưởng thôi. Đạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận th́ tắc trị. Ḷng thuận, ắt là theo. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Khi tạ từ, Trịnh Tông vẫn cứ băn khoăn, bồn chồn ra mặt. Ra khỏi cổng dinh, Du thoát được những câu chuyện chàng vốn không ưa, vui vẻ vừa đi vừa lẩm bẩm : «Thiện căn ở tại ḷng ta; chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài », rồi cứ cười tủm một ḿnh.
Trong thời gian đó, bệnh Trịnh Sâm vẫn không thuyên giảm, mỗi ngày lại có phần thêm nguy kịch. Tông xin vào thăm cha, nhưng không được phép. Ngay chính Thánh Mẫu là mẹ Sâm mà cũng chỉ có thể hỏi thăm bệnh t́nh qua quan thị, duy chỉ có Huệ và Lư là gần gũi Sâm lúc ốm đau. V́ thế, tiếng đồn là Sâm đă dâng biểu xin vua Lê lập Cán làm Đông cung thế tử x́ xào khắp chốn. Tông càng ngày càng bối rối, bực bội đi ra đi vào, không biết phải làm ǵ.
Một hôm, Tông vào Hậu Mă cung hỏi Lư về bệnh t́nh cha ḿnh. Lư lạnh nhạt, trả lời cho có rồi khinh khỉnh quay đi. Tông vừa tức, vừa sợ. Rồi không hiểu v́ lư do ǵ, Đăng Khoa lại đánh người nhà của Tông giữa chợ, c̣n rủa chúng là bọn làm mất gia phong. Tông tâu xin trị Khoa tội phạm thượng, triều đ́nh không xét mà cũng chẳng bắt Khoa xin lỗi. Tông càng căm, giận mất khôn, ra miệng chửi thẳng hai cha con Lư. Bọn người nhà thân cận của Tông là Dự Vũ, GiaThọ đều lo lắng, bàn là hễ chúa thăng hà th́ cứ việc vây bắt ngay Lư và Huệ, rồi gọi quân hai trấn Tây, Bắc về tiếp ứng là đủ diệt cái mầm họa cho Tông ở kinh đô. Nghe xúi giục, Tông nhờ Khuê trung hầu đưa cho Đàm Xuân Thụ một ngh́n lạng bạc nhờ sắm sửa khí giới, đồng thời nhắn lên hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc nhờ mua ngựa và chiêu mộ dũng sĩ. Nguyễn Khản, Hiệp trấn Sơn Tây là thầy dậy Tông, c̣n Nguyễn Khắc Tuân, hiện là Hiệp Trấn Kinh Bắc, vốn giữ chức A Bảo của Tông nên Tông hết ḷng tin cậy.
Không hiểu có ai tố cáo, chuyện vỡ lở ra. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lư vào báo với Sâm. Sâm giận đ̣i trị tội Tông ngay, nhưng Lư can :
- Khải Chúa, thế tử tuổi c̣n non dại, nếu không có hai quan Hiệp trấn ở Tây, Bắc đằng sau th́ chắc chẳng dám chiêu binh mộ sĩơ. Xin cứ lẳng lặng điều hai người đó về Kinh trước, rồi sau hăy xử tội, nếu không có thể xảy ra những biến họa khác không chừng.
Sâm nghe lời, gọi Tông vào giả trách mắng về chuyện học hành, đồng thời xuống mật chỉ vời Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản về Kinh. Lúc ấy, Ngô Th́ Nhậm, tự Hy Doăn, đương là Đốc đồng Kinh Bắc cũng theo về. Tuân và Khản bị bắt ngay khi vào đến Thăng Long. Nhậm t́m đến dinh Khương Tả Hầu vào chuyện tṛ với Phu tử. Phu tử ghé vào tai Nhậm nói ǵ không ai biết, nhưng nghe xong, Nhậm tái mặt lại, than: « Không được, không được rồi ! ». Sau đó, Nhậm vái Phu tử rồi về quê ngay, lưu lại một tờ khải Chúa xin vắng mặt để lo việc tang ma cho cha ḿnh là Ngô th́ Sĩ. Nhậm vừa ra khỏi, một viên hành tẩu cấp tốc mang lệnh cho đội Hậu Dũng đang đóng ở dinh Khương Tả Hầu. Người thư lại của đội vào th́ thào với Phu tử, trong khi đó lính đội Hậu Dũng đă trói gô Trọng Thức lại. Một lát sau, sáu người trong Nội Mật viện đến áp tải Trọng Thức về Thị Kỵ cung trong Nội phủ.
*
Tay bị bẻ quặt ra phía sau, đầu chúi xuống như đeo đá dưới bàn tay hộ pháp của tên cai ngục, Thức gập ḿnh lách qua cánh cửa hẹp vừa đủ một người lọt. Pḥng giam lờ mờ một thứ ánh sáng đục sệt, mùi mồ hôi ngai ngái như mỡ chiên cá ngột ngạt bốc lên, vừa tanh vừa lợ. Tên cai ngục tay nắm cổ Thức đẩy về phía trước, cứ bước một bước lại văng tục một câu. Qua hai dăy người ngồi kẻ nằm, chân bị cùm vào những chiếc gông dài khoảng tám thước chạy dọc pḥng giam, tên cai ngục ấn Thức xuống, xẵng giọng :
- Duỗi hai chân ra, ngồi co lên.
Tiếng xích kêu loảng xoảng, tiếng gỗ đập chát chúa vào nhau, rồi một giọng khàn khàn ngay bên cạnh quát nhỏ :
- Nhẹ tay chứ, thằng chó... Đau chân ông mày đây...
Tên cai ngục lầm ĺ không đáp lại, quay đầu đi thẳng.
Thức nhắm mắt định thần một lúc, rồi hé nh́n ra. Pḥng giam rộng độ hai mươi thước vuông, nền bằng đất nện, vách bằng gạch cao gấp đôi đầu người, sát nóc là kẽ hở có đóng then gỗ để cho không khí và một chút lợt lạt ánh sáng hắt vào. Trong pḥng dễ có ba bốn chục người bị cùm theo hàng dọc, cứ mỗi cái gông là cùm đúng ba người. Ở góc pḥng giam, một tiếng ồ ồ cất lên :
- Bác ǵ mới vào đây đấy? Vào cùng hội này cho vui ! Ở đây giờ Ngọ được ra ngoài ăn cơm, đúng ba khắc lại vào. Đến cuối giờ Dần là cơm chiều. Bác phải nhịn tiểu, đến giờ ăn ra sân tha hồ. Nói chuyện được nhưng nhỏ tiếng thôi. Đầu giờ Th́n là cấm nói, cả làng đi ngủ ...
Tiếng ho húng hắng cắt ngang, rồi tiếng ồ ồ lại tiếp :
- Hàng quán đây cũng có, tiền có trao, cháo mới múc, trừ loại khách quen. Nước chè một chinh, thuốc lào th́ sáu, rượu chén hạt mít tính mười... Cứ mỗi sáng, một bọn được thả cùm để lo việc phục dịch, ai đến phiên người ấy làm, tiền nộp lại cho bọn cai ngục. Chớ dại ăn quịt nó đáùnh cho què tay, què chân... Bác có ǵ muốn hỏi không ?
Trọng Thức chưa kịp trả lời, người cùm bên cạnh, kẻ vừa chửi tên cai ngục, giật giọng gọi to :
- ... Cho tớ cút rượu đăi ông bạn hàng xóm mới vào chiếu.
Trọng Thức quay sang cám ơn rồi từ chối. Người đàn ông chắc trên dưới sáu mươi, người xương xẩu, cao lớn quá khổ, râu tóc lởm chởm bạc thếch, ngồi thẳng dậy, mắt cḥng chọc nh́n Thức :
- ...Thế th́ bác chẳng ra cái giống nam nhi chúng tôi rồi.
Với tay lấy cút rượu vừa mang lại, ông hả mồm tu ừng ực một hơi, tay kia nắm lấy người xách rượu. Uống xong, ông ta ch́a cái cút rượu ra trả, lần túi giả như t́m tiền, há mồm cười hềnh hệch, nói lớn :
- Chú lại ghi cho ta, bổng vua ta chưa kịp lấy, hà hà...
Ngồi dựa người vào vách, ông ta nhịp tay hát toáng lên :
Này con chim cánh đen,
mỏ vàng mày nhọn,
cựa vàng mày sắc.
Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,
cứ phá cho tan, rồi bay ra, bay xa...
Tiếng hát nhỏ dần, im bặt và tiếng ngáy ph́ pḥ nổi lên như người kéo bễ. Người bị cùm phía phải Thức khẽ vỗ vào tay chàng, ra hiệu lặng im, rồi cũng nhắm mắt lại không nói năng ǵ cả. Thức thiếp dần trong cái oi bức tưởng ngọâp thở. Mồ hôi cứ ri rỉ nhớp nháp khiến chập sau Thức tỉnh dậy, lột áo ra gấp làm gối tựa đầu. Người bên phải th́ thào :
- Cởi nốt cả quần dài ra, tí c̣n oi hơn nữa. Bác chuyển từ dưới lên ?
Chưa kịp trả lời th́ người đó tiếp :
- ...Ở dưới th́ chưa cùm chân...
Người đàn ông năy vừa uống cút rượu bị cùm phía trái bỗng lại ồm ồm lên tiếng :
- ...C̣n trên th́ cùm cả tay, đến chỗ này chỉ cùm chân là dưới cái ở trên, nhưng trên cái ở dưới, hà hà... !
Thức gật đầu. Người đó lại xoay sang Thức :
- Bác tội ǵ ?
Thức cười mũi :
- Tôi chưa biết !
- Không biết tội ḿnh là một cái tội. Nhiều khi là tội lớn hơn mọi tội đấy!
- Thế c̣n cụ ?
Người đàn ông vỗ đùi cười ha hả, rồi trỏ vào người bị cùm phía tay phải :
- ...Tội hả ? Th́ bác cứ hỏi quan đây là Lănh cơ trấn Sơn Nam ắt biết ! Tội của ông ấy là tội của tôi đấy! C̣n ông ấy, cũng ngây ngô như bác, giả không biết tội, nên tội lại càng tầy đ́nh.
Lănh cơ Sơn Nam ngắt lời :
- Tôi là Nguyễn Quốc Chấn, vừa theo Tuân sinh hầu về đến cửa Tây th́ bị Cấm binh bắt ngay, thật chẳng biết ǵ, tin tức với bên ngoài không có, lại chưa ai hỏi đến. Ông bên kia là Dương Quang, cùng làng với tôi ở Hải Hậu, nay sinh sống trên Sơn Nam... C̣n bác ?
Thức tự giới thiệu, kể chuyện ḿnh theo thầy về kinh được trên ba tháng nay, và đă có gặp Trịnh Tông trong một bữa cơm tối. Dương Quang ngồi im, nghe xong chép miệng :
- Thế ra bác là ông đồ cứng cổ làm ruộng ở La Sơn đấy! Nhưng chắc chẳng phải v́ việc ấy mà bị bắt đâu. Gặp thế tử Tông, bác bàn chuyện ǵ ?
- Thật mà thưa, chẳng có chi đáng kể ! Thế tử hỏi ǵ, tôi biết th́ cứ thẳng mà nói, thế thôi !
- Nói thế nào ?
Thức thuật hết đầu đuôi, rồi nhắc lại :
- ...vậy Thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ trung chữ hiếu để bàn dân trông cậy vào...Đạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận tắc trị.
Nghe đến đấy, Dương Quang nhanh tay quơ sang chẹn lấy mồm Thức, tru lên :
- Vẫn cái giọng ấy, nghe nói thối như cứt ... Thôi, cái này nói th́ chẳng ai nghe. Bác nói thế, cũng chẳng ai thèm bắt bác, bác thầy đồ dở hơi kia ơi ! Đúng, đúng là thối... C̣n nói chuyện với nhau, bác đừng giở giọng nhân nghiă sách vở kiểu đó ra với tôi nữa, tôi nghe tôi nổi cơn lên th́ ... th́ tôi bóp cổ cho chết sặc.
*
Dương Quang năm mười lăm tuổi bỏ nhà đi theo Nguyễn Hữu Cầu, người dân miệt biển từ Hải Dương đến Yên Quảng gọi là quận He. Cầu tự xưng là Tổng Quốc Bảo Dân Tướng, kéo theo cả vạn người dấy binh chống lại đời Chúa trước là Trịnh Doanh. Ba mươi năm trước, Cầu bị nội phản, chạy về Nghệ An th́ bị tướng Trịnh là Phạm Đ́nh Trọng đuổi bắt được. Dương Quang thoát vây, chạy về với Hoàng Công Chất, lúc ấy chỉ huy nghĩa binh vùng Hưng Hóa. Chất cầm cự với quân Trịnh trên dưới gần được ba giáp, chết già, để con là Toản lên thay. Toản tính nhỏ mọn, vừa nắm quyền là t́m cách loại Quang khỏi hàng ngũ. Quang phải chạy sang Quảng Đông, từ đó lưu lạc qua Hương Cảng, Tân gia Ba, Phù Tang, đến Xiêm La, rồi Vạn Tượng. Đến tuổi tri thiên mệnh, Quang ṃ về làng. Đâu chỉ tháng sau là quan nha đă ŕnh ṃ, sau đó Nguyễn Quốc Chấn, lúc ấy đă là Lănh cơ ở Sơn Nam gọi Quang bằng dượng, phải về can thiệp mang Quang lên chỗ ḿnh trấn nhiệm. Mấy năm về đây, Quang suốt ngày đánh bễ, luyện thép làm ṇng súng. Ai hỏi để làm ǵ th́ Quang chỉ vào ḷ lửa đỏ rừng rực, hề hề cười bảo : « Đấy, tương lai đấy » . Người ta lại đồn là khi đi làm loạn, Quang đào dấu được đâu một kho tàng to bằng kho của nhà Chúa. Khi có kẻ ṭ ṃ thóc mách, hỏi gần hỏi xa, Quang lại chỉ vào bễ, giọng nửa bí mật, nửa khôi hài : «Th́ đấy, nó là vàng là tiền đấy ! ».
Hai hôm sau khi nói chuyện với Trọng Thức, Quang ngày nào cũng ngủ vùi, khi tỉnh th́ chỉ ư ử hát, chẳng buồn để ư đến ngoại cảnh. Sáng ngày thứ ba, Quang chợt khều tay Thức hỏi :
- Chú em có giận ǵ anh không ? Hôm nọ anh nói nặng, chắc chú em không quen nhỉ ?
Thức ngạc nhiên nghe cách xưng hô thay đổi, lẳng lặng lắc đầu. Quang ghé vào tai Thức th́ thào :
- Nói rằng « Tâm thuận tắc trị » là rỗng tuếch rỗng toác. Làm chó ǵ có chuyện ấy. Tâm là tâm ai, tâm bao nhiêu mạng chúng sinh để mà thuận rồi trị. Mà trị là trị thế nào ? Trị dính ǵ vào tâm con người ? Người bị trị mà không thấy trị, tức là tâm không v́ trị mà động. Không động mới thật là thuận. Như thế ắt « tắc trị » à ? Vậy có khác ǵ phóng nhiệm, để mặc tự nhiên, «vô vi nhi trị ». Nhưng muốn nhi trị th́ phải trị từ lúc vô thủy vô chung. Bây giờ, đầu chúng sinh chập chùng chồng chất những xấu xa từ bao thế hệ nay. Liệu c̣n cách ǵ đưa con người về cái hồn nhiên con trẻ tự gốc nó là thiện nữa? Thôi đi chú em ơi, đó là chuyện tầm phào, tâm thuận vô phương mà có được. C̣n tắc trị ư ? cứ cho roi cho vọt, sui thằng bần đánh thằng hàn một chặp, rồi chặp sau lại bảy thằng hàn đánh thằng bần, là xong, ha ha ha...
Thức chăm chú nghe Dương Quang, rồi từ tốn :
- Tâm thuận rút lại là người người đều thấy vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con. Quân, Thần, Phụ, Tử đâu ở đó, cư xử cứ đúng tam cương ngũ thường, lấy đó làm ḥn đá tảng dựng nền để xây lại đời Nghiêu, đời Thuấn.
- Được. Cứ cho là vậy. Nếu vua không ra vua, quan không ra quan th́ sao ? Ai đặt ra vua ra quan ?
- Vua mang thiên mệnh, đến từ ḷng trời. Vua đặt ra quan. Vua không ra vua th́ dùng lời ngay mà khuyên, quan không ra quan th́ lấy lẽ phải mà thuyết.
- Ḷng trời ? A ha ! Thế khi Thái sư Trần Thủ Độ bẫy xập chết hết ba trăm đứa tôn thất nhà Lư rồi ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh là ḷng trời ư ? Ai đo được ḷng trời ? Chứng cớ ǵ mà gọi là ḷng trời ? Ăn cắp con gà con vịt, bị bắt trói gô lại, đánh năm mươi trượng là trị tội ăn cắp vặt. Ăn cướp con trâu con ḅ, đánh hai trăm trượng, tịch biên nhà cửa là trị tội cướp cạn. Làm giạêc chiếm dinh, chiếm quận, lấy sưu lấy thuế th́ xử tử, là trị tội phản tặc. C̣n lấy đứt đi cả một triều đ́nh, lại giết cả ba họ nhà vua để tiện miệng xưng vương xưng đế, th́ các vị khoa bảng chữ tốt văn hay lại hoa mỹ gọi là thiên mệnh, cứ thuận ḷng trời mà làm, ha ha ... Rồi xua quân đi dùng sức mạnh mà cướp cả nước Chàm, đuổi dân người ta chạy vào rừng xanh núi đỏ, th́ ḿnh vỗ tay reo là mở mang bờ cơi, cái thế anh hùng. Chỉ có Vua mới làm được việc ăn cướp như thế, lại thế thiên hành đạo, nên chính cái việc cướp bóc đó cũng là bởi ḷng Trời... Dương Quang nhổ nước bọt, giọng khinh bạc, tiếp...Cứ qui tất cả vào thiên mệnh cho gọn, ha ha... mà thiên mệnh th́ tránh thế quái nào được, phải không chú em ?
C̣n cái lũ quan quyền. Chúng lập thân từ khoa bảng từ chương, tập tành miệng lưỡi ngay hồi tấm bé, chuyên đánh đĩ, tán tỉnh, nói theo, nói hớt. Ít đứa dám tự ḿnh suy xét, luận ra lẽ trái lẽ phải bằng cái đầu của chính chúng nó. Cứ vứt cái ǵ ra cho chúng nó ăn, tất chúng nó vỗ tay tán tụng rồi x́ xào là ân với đức. Thời loạn lạc, vừa vứt cho ăn vừa hứa hẹn là sẽ c̣n thêm, có đứa cũng liều mạng vào nơi hiểm nguy để ra cái điều công lao hăn mă. Ăn bằng mồm thôi chưa đủ, lắm đứa c̣n nhấp nhổm lưu danh để tiếng cho đời. A ! bọn này tinh tế hơn, không bạ ǵ nuốt nấy, hậm hực cao rao đạo lư, chơi kiểu mồm miệng đỡ chân tay...
Dương Quang ngưng nói, tay vân vê vài sợi râu bạc thếch, thở dài :
- ... Về phần đám dân đen thấp cổ bé miệng, nào là sưu là thuế, nào là sai là dịch, bắt đinh bắt lính. Với dân, đám có quyền có bính cứ mềm nắn rắn buông, bởi lẽ không buông th́ cùng quá hóa giặc. Lúc ấy được làm vua. C̣n thua ư ? Là măi măi giặc. Từ năm mươi năm nay, lúc nào cũng giặc, giặc lớn có, giặc nhỏ đầy rẫy kể không xuểå. Năm Mậu Th́n, ta mang tiền quân cụ Quạân He đổ vào bến Bồ Đề ven Thăng Long.Thủ lĩnh Lân cầm chân được binh nhà Trịnh trên Sơn Tây và Kinh Bắc, chặn đường cứu viện của bọn Phạm Đ́nh Trọng và Hoàng Phùng Cơ. Quân ta vây chặt phủ Chúa, đợi quân bộ cụ Quận từ miệt Sơn Nam kéo vào là đánh. Cụ Quận hai ngày sau mới tới được, mặt mũi rám thuốâc đạn, mừng mừng tủi tủi hỏi ta về binh t́nh. Ta ước chỉ một ngày là dẹp xong đám quân phủ Vua phủ Chúa mà thôi. Ta hỏi lại : «... Đánh xong, chủ tướng làm ǵ ? ». Cụ Quận ngẩn người ra ngẫm nghĩ rồi nói : « Ta không định làm Vua... Ta không biết làm Vua bây giờ để làm ǵ .. ». Ta nói với cụ : « Chiếm được nhưng giữ th́ không dễ, mà giữ lại không muốn làm Vua th́ vô lư lắm ». Cụ Quận suy đi tính lại rồi bảo : « Ta cũng không định làm Chúa, làm Chúa người ta chửi cho » rồi cụ quyết định rút quân. Về đến căn cứ, ta hỏi : «... Chẳng lẽ cứ làm giặc măi à ?¨ » th́ cụ gắt nhặng lên : « Thời này mày không làm giặc th́ làm ǵ ? ». Ta bạo miệng nói : « Chủ tướng làm Vua th́ Dương Quang này chỉ xin đi điều người đắp đê sông Nhị cứu lụt. Mỗi năm mỗi lụt dân đói dân khổ lắm ...» Mắt cụ Quận sáng lên, rồi bỗng tối xầm lại : « Tiên sư nhà mày, sao không nói lúc ở Thăng Long ? Giờ muộn mất rồi c̣n ǵ ! ».
Dương Quang lại im tiếng, tay đánh nhịp vào ṿng xiềng buộc đầu gông, nhắm mắt đắm người vào cái quá khứ vừa được đánh thức dậy. Chập sau, ông lại se sẽ hát, rồi thiếp ngủ đi lúc nào chẳng ai biết.
*
Sau những buổi tṛ chuyện với Dương Quang, Trọng Thức ngày càng rơ ra là kiến thức của ḿnh chỉ rặt những thể loại trừu tượng, những mẫu mực lư tưởng đă định sẵn. Trước những câu Quang luôn miệng hỏi là tại sao ? làm thế nào ? và để cho ai ? th́ Thức lúng túng nói quanh, rút cục đành nhận cái thiếu xót hiển nhiên đó. Với những kẻ ra làm quan vỗ ngực đóng vai cha mẹ của bàn dân, thứ thiếu xót này tựa như vực thẳm, mênh mang đến chóng mặt. Quái lạ, sao lại không một ai đề cập đến nó từ bao nhiêu thế hệ nhà Nho ở cái xứ sở này nhỉ ?
Ban đầu, Thức chỉ cho rằng Quang lịch lăm, từng trải, nên Quang hẳn có loại kiến thức thực dụng. Về sau, Thức biết ḿnh lầm. Từ ngạc nhiên nay đến ngạc nhiên khác, Thức lờ mờ đón nhận từ Quang một cách suy nghĩ dựa trên những phê phán rất độc lập. Khác hẳn với cái biết của Nho gia lâu nay khô sượng rập khuôn, nó sống động, táo tợn, đôi khi mới mẻ đến bất ngờ. Suy nghĩ đó đang thai nghén để định h́nh nên lại càng vô cùng hấp dẫn, quyến rũ tri thức vào những vùng đất cấm của thời đương đại.
- Quân, Sư, Phụ - Quang cao giọng - chẳng qua là một cách áp bức tinh vi đến độ những kẻ bị áp bức sẵn sàng chết để bảo vệ chính sự áp bức đó. Đừng hỏi vua là ai vội. Trước tiên, Vua là ǵ ? Là cái chính chúng ta - lũ bàn dân - đặt lên ngai, trao quyền, tung hô là Vua. Đó chỉ thuần là định danh. C̣n thực thế nào ? Định danh Vua xong, ta co lại định phận cho ḿnh : ta là phận dân ngu, cúi mặt xuống đất đen, đợi ơn mưa móc từ cái ta vừa định danh. Rồi ta cong lưng quị gối xin rằêng Vua là minh quân ! Làm sao có được minh quân ? Bàn dân bấy giờ chắp tay cầu Trời khấn Phật : có ư, có là bởi may, nếu không, ấy lại do thiên mệnh đă định cả. Khổ một nỗi, minh quân đời nào cũng hiếm. Sao vậy? Bởi ta chưa biết cách, bàn dân chưa biết cách tạo ra minh quân ! Này chú em, chú phải t́m ra cái cách ǵ mà khi bàn dân đă nhận là Quân th́ Quân ắt phải Minh...Phải chăng quân thần chẳng qua là một định ước của toàn bàn dân thiên hạ về quyền hành giới hạn cho một người, hay thậm chí một số người, để làm cái công việc mà mỗi cá nhân người dân không thể, hay không muốn, trực tiếp làm. Tóm lại, đó chỉ là một công ước về sự ủy nhiệm. Tối thiểu, cái công ước đó phải đảm bảo người được ủy quyền không biến dạng ra kẻ thống trị, và người trao quyền - là bàn dân - không phân hóa thành kẻ bị trị. Cứ thế, quân ắt phải minh chính là do qui chế của cái công ước bàn dân cùng định. Không đủ minh th́ chính cái qui chế vừa nói sẽ định cách thế quân...
Ngưng nói, Quang trầm ngâm một lát, rồi tiếp tục th́ thào như tâm sự :
- Chú em ạ ! Quân mà muốn cho Minh th́ phải tuyệt đối tránh tập trung quyền sinh quyền sát vào tay một số người, nhất là khi họ có khả năng bám giữ quyền lực một cách vô hạn định. Thời gian và quyền lực trộn lại là độc tố tiêu ṃn mọi đạo đức. Thậm chí, nó có thể giết sạch tính người, và từ đó xóa sổ luôn cả xă hội : những con người bị áp bức cứ dần dần đánh rơi mất nhân tính ḥng tồn tại, một thứ tồn tại thuần theo bản năng của mọi loài động vật...
*
Một buổi sáng, cai ngục vào gọi Thức ra cho gặp người nhà vào thăm. Thức đoán là Phu tử, hỏi nhưng tên cai ngục chỉ giục :
- Nhanh lên, ra ắt gặp...
Đưa Thức đến một gian ở chái sau trong ngục, hai tên đầu trâu mặt ngựa lực lưỡng đă đợi sẵn hất hàm ra lệnh bắt Thức cởi hết quần áo. Trần truồng như nhộng, Thức bất ngờ bị một cú đấm vào giữa mặt. Thức cắn răng, nỗi nhục nhă đau không kém ǵ những cái đá, cái đạp, cùng những tiếng chửi tục. Một tên răng vổ chửi « ... Cha tiên sư mày ! » rồi quay ṿng thúc cán gậy vào trán Thức. Xây xẩm, Thức thấy một ngh́n con đom đóm trong mắt bay ra, ngă phục xuống thềm đất ẩm ướt. Máu trên trán Thức tóe ra, phun có ṿi, lai láng chảy xuống mũi, xuống mồm. Đầu lơ mơ, Thức nghe văng vẳng « ... nhẹ tay chứ. Nó chết là mày phải tội đấy ».
Gần trưa, chúng nó d́u Thức ra phía sân trước. Người đến thăm Thức là Đặng thị Mai. Mặt mũi sưng vù, thâm tím, trán toác ra, máu c̣n nhỏ giọt qua nắm thuốc lào rịt vào chỗ đánh, Thức vẫn gượng cười gật đầu chào Mai. Xanh như tàu lá, Mai nén cơn sợ hăi nh́n Thức. Xin một thau nước, Mai nhúng khăn ướt, lẳng lặng lau máu trên mặt Thức, ḷng vừa thương xót, vừa căm giận, nước mắt ứa ra.
Thức gh́m cơn đau hỏi thăm tin Phu tử. Mai gửi lời Phu tử nhắn Thức rằng không phạm tội th́ tuyệt đối không bao giờ nhận tội ǵ cả, sống chết có số, chẳng có chi mà sợ. Lần này, nghe đến hai chữ số mệnh, Thức miệng rách toạc mà vẫn ngoác ra không nhịn được cười, mồm cười như mếu, khiến Mai không hiểu ǵ, đă sợ lại càng sợ. Chia tay, Mai nắm lấy tay Thức dúi vào một bọc vải, mắt nh́n như thể gửi gắm một điều ǵ chẳng thể nói ra miệng.
Thức bị lôi về pḥng giam, lại ngồi cùm, gượng cười với Quốc Chấn và Dương Quang. Quang chửi tục, xé một mảnh áo, gọi lớn « ... mang cho ít thuốc lào đây ». Rịt thuốc lại, rồi băng bó cho Thức, Quang vừa làm vừa hỏi đầu đuôi. Thức nhịn đau, kể lại lời nhắn của Phu tử. Quang trầm ngâm một lúc rồi bảo :
- Chúng nó đánh chú em là để làm áp lực trên Nguyễn Thiếp ! Áp lực ǵ chú em có đoán ra không ?
Thức trả lời :
- Chắc việc phế Tông lập Cán !
Dương Quang lắc đầu:
- Không cần thế ! Bắt Tông rồi, lại bắt luôn cả Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản, th́ việc phế Tông coi như đă xong.
Thức x̣e tay mở bọc vải Mai đưa. Trong bọc vải là một chục quan tiền, và một tờ giấy, soi ra sáng có ghi hai chữ Trung Nhu. Thức hỉ hả vỗ vai Quang :
- Em có tiền cho hai bác uống rượu đây !
Dương Quang vẫn lầm ĺ bất động. Một lát sau, Quang bỗng phá lên cười sằng sặc :
- Ta hiểu rồi ! Quang hạ giọng - không sao đâu, chú em ạ ! Nguyễn Thiếp thừa sức suy ra được. Chúng nó mang chú em ra xử là thế dương đông kích tây, nhắm vào Nguyễn Thiếp buộc làm một điều ǵ đó. Chú nhớ cứ một mực cứ kêu ḿnh vô tội nhé, hà hà...
Ôm lấy vai Thức rồi chồm người về phía Quốc Chấn, Quang nói to :
- Có tiền chỉ để có rượu, có thuốc. Chú uống với anh chai này đánh đố với ông xanh xem sao nhé. Bớ rượu đâu, mang cả chai đến đây... Nợ ta trả hết một thể... Chú em cũng làm một chén với anh. Ha ha, nợ nào ta cũng sẽ trả... ha ha ha...
Một chập sau, những người tù bị giam chung lại nghe tiếng Dương Quang ồm ồm hát : Này con chim cánh đen.... mỏ vàng mày nhọn... cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát ... cứ phá cho tan , rồi bay ra, bay xa...
*
Khoảng một tháng sau ngày tốâng giam, Chúa giao cho Nghĩa Phái hầu Lê Quí Đôn hiện là Đồng tham tụng tra xét Tông, Khải, Khắc Tuân và bè đảng của Tông, trong đó có một số thư lại thuộc lính tam phủ như bọn Trần Nguyên Nhưng, Mai Doăn Khê, Nhưng Thọ ... Đến lượt luận tội Thức, quan Đồng tham tụng nghe tiếng nên tiếc tài, giả vờ quở :
- Ngươi mới đặt chân tới Kinh Kỳ, ở chốn thôn dă nên dễ bị người lung lạc, cứ biết sao nói vậy, thật thà kể ra hết th́ giảm tội.
Thức thuật lại mọi chi tiết trong bữa tiệc Tông mời buổi tối cách đây hai tháng. Quan định tâm tha nhưng viện Nội Mật đ̣i Thức đối chất với Đàm Xuân Thụ. Thụ kể :
- ... Trọng Thức c̣n xướng lên : « Chữ Binh kia mới bằng ba chữ Quyền » và bảo riêng với tôi rằng cái xương sống của quyền lực nằm dọc theo lưng lưỡi kiếm.
Thức lắc đầu cười nhạt không nhận. Người của Nội Mật lại khai rằng năm xưa có tin Thức định làm loạn. Chính Nguyễn Khản đă can thiệp với Hiệp Trấn Nghệ An là Hoàng Tế Lư để bỏ cái lệnh cấm Thức không được ra khỏi hai huyện Thanh Chương và Thanh Oai. Ngày nay, bám được vào Tông với Khản, Thức chẳng qua lại ngựa quen đường cũ nên nài quan Đồng tham tụng định tội mưu phản. Nh́n thẳng vào mặt Đàm Xuân Thụ, Thức hỏi :
- Ông xưng là gia nhân thế tử Tông đến mời tôi, lúc ấy ông đă làm trong Nội Mật viện chưa ?
Không đợi Thụ trả lời, quay sang Lê Quí Đôn, Thức tiếp :
-Tŕnh quan, viện Nội Mật buộc ai th́ người đó không cũng thành có tội, tha th́ có tội lại thành không. Kẻ tiện dân là cá nằm trên thớt, quan xử thế nào cũng chỉ là chuyện để phiếm mà thôi.
Quan Đồng tham tụng ngại ngùng rồi tạm hoăn việc định tội lại.
Ngay buổi chiều sau ngày luận tội Trọng Thức, Phu tử đ̣i gặp quan Chánh dường Hoàng Tế Lư. Khác mọi lần trước, Lư bắt Phu tử đợi đến lúc mặt trời xế bóng mới mời vào điện Hậu Mă, nơi Lư đến nghỉ ngơi sau khi chầu Chúa. Lạnh lùng, Lư đưa tay mời ngồi, không nói năng ǵ. Phu tử nh́n vào mắt Lư một chặp, rồi chậm răi đi thẳng vào câu chuyện giằng co với công việc nhà Chúa từ ngày đến đất Thăng Long :
- Trăm họ, kể cả họ Nguyễn ở La Sơn đă hơn hai trăm năm nay ăn lộc của Vua của Chúa. Xưa, đức Trạng Tŕnh đă dặn « muốn ăn oản th́ phải thờ Phật ». Cách đây hai năm, Chúa đă sai Vũ Trần Thiệu sang cống hiến nhà Thanh, mật biểu rằng con cháu nhà Lê không c̣n có ai xứng đáng để nối dơi nghiệp Đế. Quan Chánh dường thừa biết là Thiệu đến Động Đ́nh hồ th́ nuốt biểu vào bụng rồi uống thuốc độc mà chết, tránh cho nhà Chúa cái chuyện đại nghịch. Nguyễn Thiếp tôi dẫu ngu muội cũng không thể nào không lấy đó làm tấm gương cho ḿnh, nên dù cả họ phải chết để giữ toàn tiếng cho Chúa cũng đành chịu chứ có xá chi một mạng Trọng Thức ! Như vậy, bắt tôi đồng ḷng soán ngôi nhà Lê th́ nhất quyết là tôi không...
Phu tử ngừng nói, nâng tách trà uống từ tốn, rồi tiếp :
- ...Phần Trọng Thức, tôi vừa là thầy, lại vừa là bác nên nó bị Nội Mật viện khải tội th́ tôi chỉ c̣n biết dậm chân kêu trời, xấu hổ không dám nh́n Chúa, xin ông tâu Chúa cho Thiếp này về lại nơi thôn dă.
Phu tử đứng dậy, ṿng tay chào, cười nhạt :
- Nếu chính là ngài bắt tội họ Nguyễn ở La Sơn th́ chừa ra Toàn Nhật. Không biết đích thực bố nó có phải họ Hoàng không, nhưng mẹ nó là người họ Vơ. Vơ thị đă trầm ḿnh trong ḍng Lam Giang khi thằng bé mới đẻ, tôi đem nó về nuôi khi lên mười là nuôi hộ cho bố nó đấy !
Lư mặt sầm lại, gượng gạo mời Phu tử ngồi, song gằn giọng :
- Việc soán th́ thôi. C̣n việc phế Tông lập Cán ?
Phu tử ngẫm nghĩ , rồi lắc đầu chán nản thở dài :
- Việc đó cứ coi là việc riêng nhà Chúa,Thiếp này là kẻ tiện dân nên muốn hay không cũng chỉ cắn răng cúi đầu ngậm miệng.
Mươi ngày sau, Trịnh Sâm vời đủ mặt đông đảo quan thị trong triều, khóc như thói quen của những người có cái quyền định đoạt sinh mạng kẻ khác lúc sắp sửa giết ai. Lấy khăn chấm nước mắt, Sâm phán: « Tông và bè đảng đều phạm tội đại nghịch, theo sách Xuân Thu th́ lẽ ra là phải xử chém. Song nghĩ t́nh máu mủ, nay không bắt chết nhưng đánh xuống làm conn «út » giam vào Nội phủ. Hồng-lĩnh hầu, Tuân-sinh hầu và Khê-trung hầu đều là công thần đă theo ta từ thuở mới chấp chính nên cho phép được tự xử chứ không mang chém. Kỳ dư, bè đảng của Tông cứ theo định tội mà làm, không được giảm xá ».
Lê Chính giữ một chức quan nhỏ trong Lượng phủ ra qú tâu: « ...có những kẻ đă dồn Thế Tử vào đường cùng cho mới nên nông nỗi ». Trịnh Sâm gạt tay không cho Chính nói tiếp. Khi tan chầu, Lư đợi Chính ở cửa phủ, nh́n vào mắt, khen « Cậu rơ là người khôn ngoan », tiếng cậu là tiếng chỉ quan thị dưới đời Lê-Trịnh. Ngay hôm sau, Chính mang cả gia đ́nh trốn nhưng bị người trong Nội Mật viện bắt lại. Lê Chính tự tử nhưng được cứu không chết, năm sau mới ra khỏi ngục trong buổi loạn Kiêu Binh.
Khản làm một bài văn Nôm lén chuyền được vào cho Chúa, kể lể t́nh xưa nghĩa cũ với Chúa. Trịnh Sâm đọc xong, nhớ lại cái thuở Khản hết ḷng pḥ ḿnh, ngần ngừ rồi cuối cùng giảm án cho Khản, không bắt chết mà chỉ giam vào dinh Quận Châu. Hoàng Tế Lư rất bực bội, nhớ lại chuyện Khản và Đĩnh định hại ḿnh cách đây dăm năm. Lư biết lỡ dịp này th́ khó diệt được Khản nên vào nói nhờ Thị Huệ can thiệp. Sâm khăng khăng ư ḿnh. Thị Huệ giựt viên ngọc quí Sâm lấy được khi vào chinh chiến Đàng Trong vẫn đính trên áo ngự quăng xuống đất, miệng gào khóc kể lể. Sâm cuốâng quít, làm hề chọc cười Huệ, nhưng Huệ lại càng khóc to hơn nữa. Cuối buổi tối hôm đó, để cho Huệ vui lên, Sâm đành hứa gả con gái là công chúa Ngọc Lan cho Đặng Mậu Lân, tên hung thần mắt cú.
Ít lâu sau, Tuân sinh hầu và Khê trung hầu đều uống thuốc độc tự tử. Về phần Trọng Thức, có mọât người lạ mạêt nhận là kẻ phục dịch cho Tông ra phản cung Đàm Xuân Thụ. Viện Nội Mật cũng thôi không o ép nên Thức xem như trắng tội.
*
Ngày Thức được thả ra là ngày mười sáu tháng chín. Hôm ấy cũng là ngày đao phủ đem chém dư đảng của Tông, đếm ra đúng chín mươi bẩy nhân mạng. Pháp trường được đặt trên mặt đê Yên Phụ, cách chùa Trấn Quốc chừng non một dặm. Buổi sáng, quạ không biết từ đâu về đậu đen đặc bờ tả ngạn sông Nhị, quang quác lên đến rách toang màng nhĩ. Trời xuống gần đất và mây xám xà vào đậu trên những ṿm cây rũ rượi dưới trận mưa phùn đă kéo lê ṛng ră ba ngày. Chính Ngọ, bàn dân ai nấy giật ḿnh nghe thấy một tiếâng nổ như sấm động, sau người hàng phố th́ thào với nhau rằng núi Hùng tự nhiên sụp xuống gần hai mươi thước.
Thức lẩn vào đám đông, mắt ngóng lên đài chém, , vết thương trên trán nay đă thành một vết sẹo chạy đâm xuống chân mày, cứ giật lên mỗi lần chàng lo hay phải tập trung suy nghĩ. Lạy trời, Thức thầm nhủ, lạy trời là thoát. Ḷng chập chờ hy vọng, Thức nhướng người nh́n, mong không có bóng dáng Dương Quang trong đám tử tù.
Hai ngày sau trận đ̣n hôm Mai vào thăm, Thức bị chuyển pḥng. Khi chia tay, Dương Quang chỉ kịp nh́n Thức bùi ngùi : « ...chú em thoát được th́ vào Đàng Trong, rồi đi xa để học cái tốt người ta mang về mà giúp đời. Nhớ nhé, một là tránh cho bằng được cái học rỗng tuếch, thứ là chớ có sa vào bất cứ khuôn mẫu ép buộc nào, kể cả Quân-Thần, Sư-Môn, Phụ-Tử, Phu-Thê nếu nó là ép buộc. Đời ta, ta chỉ trọng độc có một cái là t́nh bạn mà thôi ! ». Từ đó, Thức bặt tin Dương Quang, nhưng mỗi khi nhớ đếùn, Thức lại bồn chồn lẫn đau xót.
Đám tội phạm bị trói giật cánh khuỷu, xếp hàng bước theo chân nhau, lặng lẽ đi như đám ma chơi sau khi ăn cháo thí lễ cúng cô hồn. Trong đám đông đă có dăm ba tiếng chửi tục và tiếng nức nở kêu oan. Chợt tiếng hát ở đâu đây oang oang lên như lệnh vỡ :
Này con chim cánh đen,
mỏ vàng mày nhọn,
cựa vàng mày sắc.
Cái lồng nhốt mày bằng nan mục nát,
cứ phá cho tan,
rồi bay ra, bay xa...
Nhạc bát âm từ đâu chợt vẳng lên, gần lại, và chỉ trong giây lát ai cũng nghe rơ tiếng sênh tiền. Bụi cát bay mù mù, rồi cờ quạt phần phật rợp kín cả trời, lính tráng rầm rập nện chân trên đê như đi dận đất chống lụt. Một người đàn bà cùng ba đứa con c̣n nhỏ chạy ào vào ôm lấy chồng lấy cha. Tiếng quát tháo, tiếng đấm đá th́nh thịch, tiếng chửi, tiếng khóc. Đàn quạ bay lên lượn qua lượn lại kêu phụ họa với hồi trống cái đă th́ thùng dọa nạt. Chập sau, tiếng những người đao phủ rống lên với nhau bài hát trước khi chém đầu như đi hát đúm:
Tiếng loa vừa dậy.
Hồi chiêng đă mau.
Sống chẳng thù nhau.
Chết không oán nhau
Tiếng hát được nhịp theo bằng tiếng rơi b́nh bịch như tiếng những quả mít cuối mùa ĺa cành rụng xuống trong cơn gió dữ.
Khi điệu Nguyễn Quốc Chấn, thủ hạ của Tuân sinh hầu Nguyễn Khắc Tuân, ra chém th́ trời tối sầm xuống. Chấn gào lên « Trời không có mắt, triều không có quan, để ta chết oan. Hăy để bút giấy vào tay áo ta cho ta xuống kiện với Diêm Vương » rồi nhất định không chịu qú. Đao phủ hươi đao, đầu Chấn rơi xuống đất nhưng người vẫn trơ trơ không ngă, phải khiêng ra như người ta khiêng một thân cây cứng nhắc.
Đó là vụ án Canh Tư được ghi lại trong Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại như sau:
1780-(Canh Tư)
Tháng 9 âm lịch. Cung phi Đặng Thị Huệ được Trịnh Sâm sủng ái muốn giữ ngôi Chúa cho con là Trịnh Cán. Con trưởng của Sâm là Trịnh Khải mưu cùng Đàm Xuân Thụ, Nguyễn Lệ trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, khởi binh giành ngôi Chúa. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Khải và một số người đồng mưu.
Dĩ nhiên ai cũng hiểu Khải c̣n có tên là Tông, và Lệ là Khản. Không ai nhắc đến vai tṛ của Huy quận công Hoàng Tế Lư. Không ai lưu ư rằng Thụ được phong Hầu sau vụ án. Và nhất là chẳng có một người nào, cả thời xưa lẫn thời nay, quan tâm đến đám chín mươi bẩy người tội phạm.
Ngày hành h́nh trong vụ án năm Canh Tư, nước sông Nhị lại thêm một dịp đỏ hơn trước và đàn quạ hôm sau không biết bay về đâu. Cho đến hết đời Tây Sơn, cư dân sống ven sông Nhị thỉnh thoảng lại nghe văng vẳng tiếng hát về những cánh chim. Không biết Dương Quang, họ đồn rằng đó là oan hồn Nguyễn Hữu Cầu hiện về hát khúc « Chim trong lồng » do chính ông trứ tác khi đợi ra pháp trường hơn hai mươi năm về trước.
Tối hôm chém đầu chín mươi bẩy người tội phạm, mặt trăng sợ không dám ló hết ra. Trăng mười sáu mang h́nh lưỡi liềm cứ lơ lửng giữa trời đe dọa.
Hơn hai trăm năm sau, mặt trăng ấy vẫn chưa tṛn.