3 Nhát gươm ân sủng
Từ lưng đồi nh́n xuống, hai nhánh đê trông hệt như người ngă xoạc cẳng, lưng dựa vào sông Nhị đỏ ngầu mùa nước lớn, đầu gục vào nhánh phụ cuồn cuộn bọt trắng trôi về miệt Thái B́nh. Ngay chân đê, quán nước lặng lẽ nép vào triền đất mầu đỏ nâu, nhỏ bé, nhẫn nhục. Lăo Thuyết ngồi gật gù, tay mân mê dăm sợi râu bạc thếch, lờ đờ nh́n ra bến thủng thẳng : « Chắc không c̣n chuyến nào ». Nắng trên sông nhạt dần. Toàn Nhật nâng ly nước chè xanh uống một hơi, mặt có chút đăm chiêu, hàm râu đen nháy quanh hàm phập phồng theo nhịp thở. Nhướng mắt lên nh́n về phía bờ đê Phi Liệt, Nhật thở ra : « Đợi thêm một lúc xem sao ».
Lăo Thuyết lại gạât gù :
- Ừ th́ đợi ! Tôi sống trên bến này ngày nào là đợi ngày ấy đấy. Càng đợi lâu, càng sống dai. Các cậu trẻ hay sốt ruột chứ tôi à, tôi sống là đợi ... hà hà. Hai chục năm trước, thuyền bè đến luôn, bến lúc nào cũng tấp nập. Nay th́ khác, khác nhiều ...
- …
-Thuyền khách ít văng lai là v́ có lệch Chúa cấm. Với lại, thuyền Hà Lan thuế bến tăng gấp hai mươi lần nên họ cập Hội An. Đến Phố Hiến chỉ c̣n thuyền Phù Tang, thuyền Phú Lăng Sa thôi. Nhưng cứ ngày ít dần đi, thậm chí một năm chỉ c̣n trên dưới hai chục chuyến ...
- Sao vậy cụ ?
- Ấy, khó lắm. Được ḷng Đằng Trong th́ mất ḷng Đằng Ngoài. Chẳng ai vừa bụng được, cả Nam lẫn Bắc. Rồi trăm thứ tốn kém. Hàng ta về muộn, bốc rỡ chậm, không chất lên thuyền khách ngay. Cứ rề rà, thế là thuế bến tăng, chỉ khách thương là phải x́ tiền ra chứ quan nha có lỗ lă ǵ đâu. Như cậu, h́nh như chuyến này cậu ra đợi thuyền về là lần thứ năm hay lần thứ sáu th́ phải ...
Toàn Nhật uể oải gật đầu. Bốn tháng trước, chàng rời Kinh đến đây với bức thư gửi gấm từ dinh quan Chánh dường Hoàng Tế Lư. T́m gặp ông Śn, một người Hoa đến cư ngụ Phố Hiến trên ba mươi năm, chàng ngần ngừ đưa bức thư. Ông Śn khịt khịt mũi, vỗ vỗ tay chàng, kêu : « Hảo ! hảo ! ». Hai hôm sau, ông ta đưa chàng đến Nhật Bản Thương Hội gặp Koji Mishima.
Koji Mishima khoảng tứ tuần, cao lớn, nghiêm nghị. Với mớ tóc búi ngược ra sau như kéo xếch mắt lên, mặt ông căng thẳng, ngược hẳn lại cung cách khoan thai chậm răi . Giọng ông nói ê a, kéo dài ra khàn đặc, nửa như hát, nửa như than. Ông bằng ḷng. Từ hôm đó, Toàn Nhật dọn về ở một căn pḥng phía sau Thương Quán, sát hàng dậu nơi Mishima cư ngụ.
Việc chàng được giao phó là chép lại tất cả sổ sách thương vụ sáu năm nay, kể từ khi Mishima sang phụ trách điều hành Thương Hội. Toàn Nhật làm công việc được giao phó trong ba tuần rồi đưa lên tŕnh Mishima. Ông ta lật ra, lơ đễnh nh́n tập giấy, lẳng lặng gật đầu. Cả tuần lễ sau, ông ta không hỏi han ǵ, mỗi lần gặp chỉ khẽ nghiêng ḿnh chào Toàn Nhật. Đợi thêm một tuần, Toàn Nhật lên chào Mishima xin nghỉ, phần v́ cuồng chân cuồng tay, phần v́ nóng ruột nghe tin Trọng Thức bị bắt bỏ ngục trên Kinh. Mishima khẽ gơ ngón tay xuống mặt bàn hỏi:
- Ông không thích công việc ?
- Việc ông giao đă làm xong, tôi ăn không ngồi rồi hai tuần nay rồi.
- Th́ đă sao ? Tôi trả lương cho ông được mà.
- Cám ơn ông. Tôi không dám nhận.
Mishima ề à như thách thức :
- Có việc khác đấy, nhưng khó hơn, đ̣i hỏi hơn, ông có khả năng không ?
Toàn Nhật ngước mắt lên nh́n dọ hỏi. Mishima lẳng lặng lôi ra một tập giấy đưa Toàn Nhật :
- Làm việc này th́ ông phải kư giấy nhận điều kiện với tôi.
Toàn Nhật cúi xuống đọc. Máu rần rật đưa lên làm mặt chàng đỏ dần. Nh́n thẳng vào mặt Mishima, Toàn Nhật gặng nói chậm răi :
- Hao hụt hai lạng vàng, chém một tay. Sáu lạng, chém hai tay. C̣n trên mười lạng, chém đầu.
Mishima gật đầu.
- Đă nhận làm, không bao giờ có quyền tự được nghỉ. Nghĩa là suốt cả một đời ?
Mishima lại gật đầu.
Toàn Nhật ngẫm nghĩ, cười nhạt, hỏi :
- Ông cho người chúng tôi là đám ăn cắp, lại sẵn sàng làm nô lệ ?
Mishima chỉ khẽ lắc đầu, vẫn không nói năng ǵ cả. Nhật gặng :
- Ông đă chém ai chưa ?
- Tôi đă chém bốn lần, hai lần là chém tay, c̣n hai lần kia phải chém đầu.
Toàn Nhật gằn giọng :
- Hừ ! Một mạng người giá là mười lạng vàng. Ông tính toán thế nào mà ra cái số ấy ?
Mishima chậm răi :
- Thật ra chỉ ăn cắp một chỉ vàng cũng đă đáng chém đầu. Tôi không hề nghĩ đến cách đánh giá một mạng người như người ta đánh giá một mặt hàng bày ở chợ. Tại sao mười lạng ? Có lẽ v́ tôi già rồi, bớt đi cứng rắn chăng ? Hay có lẽ v́ tôi không thểà không ứng xử cho phù hợp với cái xă hội tôi đang sống trong đó ? Phần đối với tôi, nếu tôi lấy của ai đó một chỉ vàng mà không được sự ưng thuận hay không có ǵ để đền đáp, chính tôi sẽ tự chém tôi, chẳng cần ai khác !
Toàn Nhật lấy bút, chấm mực, thảo nhanh : « ... hao hụt một chỉ vàng là chấp nhận chém đầu, nhưng có thể nghỉ việc bất cứ lúc nào ». Đưa tờ giấy do tay ḿnh thủ bút, Toàn Nhật đứng lên , hỏi : « Có người ăn cắp v́ nghèo đói, có chém không ? ».
Mishima gật gù, ề à :
- Những ai nhận làm với điều kiện tôi đặt đều có thù lao hệt như tôi. Với lợi tức đó, họ không phải là những người nghèo đói ! C̣n như điều kiện ông vừa đề nghị, để tôi nghĩ lại xem. Xin ông cứ ở lại thêm vài ngày, đi chơi đây đó, tôi sẽ trả lời ...
*
Như lệ thường, Toàn Nhật dậy sớm, mỗi sáng bỏ ra ba khắc múa gươm. Sau đó, chàng thả bộ đi vào Phố Hiến, đôi khi ghé lại chào hỏi ông Śn, chủ một tiệm thuốc bắc. Phố Hiến không phồn hoa như trên Kinh, nhưng đă mang dáng dấp thị thành. Ngoài cư dân địa phương, số người ngoại quốc có thời đă chiếm đến một phần ba. Người Tàu quây quần vùng phố Khách. Người Nhạât xây Nihon-machi phía đông. C̣n lại, đa số người phương Tây tụ họp quanh Nhà Thờ. Hiện nay, người Hà Lan gần như không c̣n một ai. Số ở lại gồm dăm người giáo sĩ ḍng Tên, phần lớn là người Bồ đào Nha và người Pha lang Sa. Ngoài ra, có khoảng trên dưới năm chục thương nhân, thường là đi lại buôn bán cho công ty Hà Lan Đông-Ấn. Họ quanh quẩn trong miệt Hưng Yên, và phải đặc biệt lắm mới được phép trẩy Kinh. Bám rễ xung quanh đám thương dân này là một số người bản địa làm công việc thông dịch và trung gian buôn bán. Về phần người Nhật, số thuyền buôn được chính quyền Nhật Bakufu cấp cho châu ấn ngày càng ít v́ chủ trương bế quan tỏa cảng của họ. Giao dịch với Chúa đàng ngoài là đoàn thuyền thuộc Suminokori Ryoi, chủ nhân của Koji Mishima.
Lang thang đến khi mặt trời lên gần đỉnh ngọn tre, Toàn Nhật ghé vào hiệu thuốc ông Śn. «Hảo, hảo », ông ta vồ vập, miệng cười lộ ra hàm răng vàng xỉn khói thuốc. Nghe Nhật kể về điều kiện công việc, ông ta lại x́ xào «hảo, hảo » và th́ thầm « Cái chuyện chém đầu có thật, nên ông Koji không được phép rời Phố Hiến về Nhật Bản từ bốn năm nay ». Ông kết luận : « ... Cái người ǵ mà ghê ghê quá » và khuyên bảo « Cậu chớ làm nữa, nó chém thật đấy !» . Toàn Nhật chỉ cười rồi cáo lui.
Ghé vào hàng quán ăn xong một bụng cơm, Toàn Nhật lại lững thững theo chân đê đi ngược lên miệt Thái B́nh. Trời tháng tám oi, cỏ cây cũng lấm tấm rịn mồ hôi. Tiếng ve khi rỉ rả, khi chói chan, ḥa tấu một khúc trường ca tưởng như vô thủy vô chung, mơ hồ chở về những mộng mị chập chờn.
Nhật nằm xuống thảm cỏ cạnh miếu Ba Cô, mắt nửa nhắm nửa mở, thèm một cơn gió, mơ mơ màng màng. Đầu Nhật nặng trùng xuống. Bỗng đâu đó văng vẳng tiếng người đàn bà. Nhật ngước mắt nh́n. Trên thềm, trong một góc trắng đục, như có ai ngồi, lưng quay về phía sông, tay cầm quạt nhẹ nhàng phẩy gió.
- Con ngủ đi, mẹ quạt cho mát ...
- Mẹ, mẹ đấy à ? .
- Ừ, mẹ đây, mẹ về với con một lát.Đă bao nhiêu năm !
- Sao mẹ bỏ con đi ? .
- Nào mẹ có muốn thế ...
- Mẹ đừng đi nữa, mẹ ơi, mẹ ...
Nhật hét lên, trợn mắt, nh́n theo cái bóng trắng mờ dần rồi mất hút trong ánh nắng vàng cánh ong. Nhật ngẩn ngơ, lại nằm xuống, và nhớ người mẹ nuôi trên trại Bùi Phong.
Năm Nhật được mười sáu, Đặng thị nói : « ... Con về nhà này đă khôn lớn rồi, không đẻ con nhưng mợ thương con như con đẻ ». Đặng thị ngần ngừ, rồi nhỏ nhẹ « ... c̣n về gốc gác, để mợ kể ... ».
*
Làm Huấn Đạo được bốn năm ở Anh Đô, Nguyễn Thiếp tưởng đă yên phận, nào ngờ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm lại vừa được sắc phong Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh. Là thầy dậy Thiếp, chính Xuân quận công ép buộc học tṛ ḿnh nhậm quan, sau đó lại rắp tâm đẩy Nguyễn dấn sâu vào bước hoạn lộ. Hai tháng sau đó, Thiếp nhận được tuyên chỉ bổ nhiệm ḿnh làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thếù, nhưng Thiếp thu xếp để lui về trại Bùi Phong, ở cái thế nửa xử nửa xuất.
Sáu năm sau, tức là vào năm 1768, Nguyễn Nghiễm mất. Vào Tiên Điền chịu tang thầy, Thiếp thấy cái lẽ xử không c̣n lư do ǵ tồn tại, âm thầm quyết định từ quan để lui hẳn về cuộc sống ẩn dật. Trên đường từ Tiên Điền về Nguyệt Ao, khi đi qua Phú Thạch, Thiếp và Đặng- thị ngừng chân ghé vào một cái quán ven đường uống bát nước. Lúc ấy, gió nồm đă bắt đầu ùa vào hai miền Thanh Nghệ. Nắng gắt đến sáng trắng những thửa mạ cằn khô trơ đất muối. Trong quán chỉ có một thằng bé chạc chín mười tuổi, mắt đen lay láy, đang cặm cụi xoài người tô tô vẽ vẽ. Rót xong hai bát nước chè xanh, nó lại lẳng lặng quay về góc cái trơng nằm sau chiếc bàn có bầy một lọ kẹo lạc, một cái ấm chè, một nắm lạc rang và dăm củ khoai luộc.
Bàn thêm về chuyện xin từ quan,Thiếp nhếch mép nói như một lời than « Trống đánh canh ba, gà gáy canh năm, chó má tru mơm sủa ». Nghe thằng bé bật lên cười, Thiếp quay sang nh́n. Nhẹ nhàng, Thiếp hỏi:
- Sao cháu lại cười ? Câu đối đấy, đối được không ?
Thằng bé đỏ mặt bẽn lẽn. Thiếp khuyến khích:
- Cháu cứ đối đi, nếu hay ta sẽ thưởng !
Thằng bé cau mày ngẫm nghĩ, rồi lí nhí :
- Mơ gơ mười phương, chuông vang tám hướng, người ngợm ngoác miệng cười.
Ngạc nhiên, Thiếp thích thú nh́n kỹ thằng bé, rồi hỏi:
- Cháu học hành với ai ?
Thằng bé trả lời là nó học với ông ngoại. Bạo dạn hơn, nó nói:
- Ông ngoại bảo tṛ chơi chữ nghĩa thật chẳng có ǵ khó. Đấy, vế trên có trống th́ vế dưới đối phải là mơ, trên chó má th́ dưới phải người ngợm, rồi trên tru mơm sủa th́ dưới là ngoác miệâng cười...
- Thế th́ cái ǵ mới khó ?
- Ông cháu bảo đạo mới khó, lư mới khó, ngoài ra th́ chỉ toàn phù phiếm cả mà thôi.
Thiếp đưa tay lên vân vê cḥm râu đang ngả bạc :
- Thế cháu hiểu vế trên thế nào mà đối vế dưới như vậy ?
- Vế trên ư...
Thằng bé ngần ngừ, mắt nh́n xuống đất, rồi tiếp :
- ...cháu không rơ. C̣n vế dưới th́ là v́ mỗi tháng cứ đúng ngày rằm cháu lên chùa giúp sư cụ, cháu thấy các bà đi lễ xong ai cũng tươi lên, cười cười nói nói...Thế thưa ông vế trên nghĩa là ǵ ?
Thiếp chạnh nghĩ đến thế sự, ngậm ngùi :
- Đấy là cái cảnh Vua chẳng ra Vua, Tôi chẳng ra Tôi, trống đánh suôi kèn thổi ngược. Quân bất vi quân, thần bất vi thần nên lũ tiểu nhân được dịp thao túng mà chẳng ai làm được ǵ !
Nói đến đấy th́ một cụ già chống gậy bước vào, vẻ ngạc nhiên, chào khách :
- Xin kính chào quan huyện.
Chủ khách thăm hỏi nhau, Thiếp mới biết ông đây họ Vơ ở Thạch Hà, xưa vốn có dậy học song không hiểu lẽ ǵ bỗng dưng bỏ làng đi, bây giờ sinh sống qua ngày bằng quán nước ven đường và thỉnh thoảng viết phúng viết điếu cho dân làng lân cận.
Thiếp khen thằng bé và hỏi tên. Nó lấy họ Vơ là họ ngoại.
Khi về Đặng-thị ứa nước mắt nhớ đến Thúc Khải, đứa con lưu lạc đă xô giạt với gia đ́nh họ Hà vào Đàng Trong gần chục năm nay. Mấy tháng sau, khi nghe tin ông thằng bé bị bạo bệnh rồi qua đời, Đặng-thị bàn với Thiếp mang nó về nuôi. Đến quán cũ th́ thằng bé đă theo một bà cô về làng. Đặng-thị lại lặn lội đi t́m. Lúc nói chuyện với bà cô, Đặng-thị mới nghe rằng mẹ thằng bé xưa chửa hoang. Cô ta lậy bố xin giữ cái bào thai vô tội. Ông bố xấu hổ đóng cửa không dậy học nữa, cắên răng nghe những lời đàm tiếu mỉa mai. Sinh đẻ xong xuôi, cô ta viết lại một lời tuyệt mệnh, xin bố tha lỗi, và xin đăït tên con là Toàn Nhật thể theo lời ước hẹn với người đàn ông nay đă cao bay xa chạy. Bốn ngày sau, người ta vớt được xác cô giạt vào bờ sông Lam. Kể đến đấy, bà cô thằng bé ghé vào tai Đặng-thị th́ thầm. Th́ ra nghe đồn bố nó họ Hoàng, có thể là Hoàng đăng Bảo thi văn đỗ Hương cống năm Ất Dậu, rồi thi vơ đỗ Tạo sĩ năm Bính Tí. Mà nghe đâu lại cũng có thể là chính Quận Việp, chú của Đăng Bảo, lúc ấy là quan Hiệp Trấn xứ Nghệ.
Quận Việp thời ấy vô cùng lừng lẫy. Hai vùng Thanh-Nghệ liên tiếp được mùa mấy năm liền nên bàn dân thiên hạ không c̣n ca thán. Việp sai Bảo đi đánh dẹp giặc giă khắp nơi, lần nào cũng đắc thắng. Bảo lại khôn ngoan dùng người rất đúng chỗ, chiêu hiền tập sĩ khắp nơi, thu phục được cả Nguyễn Hữu Chỉnh, đỗ hương cống khi mới mười sáu tuổi, giao cho Chỉnh toàn bộ thủy quân, coi đội Tiền Cơ ở Nghệ An. Giặc biển từ đấy hết hẳn hoành hành, và Chỉnh nổi tiếng là con cắt nước hai trấn Thanh-Nghệ. Đăng Bảo, có nghĩa là lên ngôi, sinh năm Hợi. Trong kinh, người ta kháo nhau rằng «một con lợn đuổi đàn dê », ư ám chỉ Đăng Bảo sẽ truất Trịnh Doanh và con là thế tử Sâm v́ hai cha con Chúa đều tuổi Mùi. Để tránh tiếng x́ xào, Bảo tự đổi tên thành Tế Lư. Nghe lời tâu của chính thế tử, năm Toàn Nhật sinh ra cũng là năm Đăng Bảo được chúa Trịnh Doanh gả cho đứa con gái thứ mười một, tức là công chúa Ngọc Tĩnh, để thưởng công chú cháu quận Việp đă đánh đuổi được giặc Lê duy Mật bật khỏi Nghệ An phải lùi về măi tận Trấn Ninh. Tiếng là thưởng công, thực ra Sâm nhờ em gái ḿnh ḍ xét Bảo.
Lúc nghe Đặng thị muốn xin Toàn Nhật về nuôi, bà cô nước mắt ngắn nước mắt dài kêu « Đứa cháu này, bà huyện ơi, tội nghiệp, tôi thương nó lắm ! ». T́nh thương đó nhạt dần, và khi Đặng thị giúi thêm hai quan tiền nữa th́ h́nh như đă lắng vợi hẳn xuống.
*
Toàn Nhật rời miếu Ba Cô vào lúc trăng vừa lên. Cơn nóng hầm hập ban trưa dịu xuống, không khí nhẹ hẳn đi mặc dầu gió vẫn lặng. Về đến bên hàng dậu, Nhật giật ḿnh nghe những tiếng hét vang lên từng chập. Vườn chuối bên kia có tiếng bước chân th́nh thịch. Nh́n vào, Koji bất động dưới ánh trăng, mắt nhắm nghiền. Chợt ba lằn quang vung lên trong một chớp mắt, kèm theo là tiếng hét vừa chắc vừa gọn như từ trong bụng phát ra. Cứ như thế, những tiếng hét vang lên, xé cái tịch mịch ghê rợn dưới ánh trăng xanh nhợt. Bỗng Koji cất tiếng :
- Mời ông vào đây. Tôi cũng đă xem ông sáng sáng múa kiếm ...
Toàn Nhật lẳng lặng vào vườn, nh́n Koji tươi cười, khom người chào ḿnh. Khác hẳn với cung cách chỉ khẽ nghiêng đầu lúc trước, cách chào của Koji nay không c̣n kiểu bề trên kênh kiệu. Koji trầm giọng, ê a :
- Ông xem, tôi chỉ biết có ba đường kiếm. Phạt chéo bên trái, rồi bên phải và một đường bổ dọc ...
Toàn Nhật thích thú :
- Vâng, nhưng nhanh lắm. Lại chắc, nếu đánh trước th́ kẻ địch khó mà chống đỡ nổi.
Koji mỉm cười :
- Không có chuyện đánh trước, đánh sau ... Cũng không có cái ǵ gọi là kẻ địch.
- …
- Vâng, chỉ có ta và kiếm. Lúc rút ra khỏi vỏ th́ thành một. Và đối tượng cũng là ta, chứ không ai khác nên làm ǵ có địch !
Trước vẻ ngẩn ngơ của Toàn Nhật, Koji thân mật vỗ vai, kéo ra sau một cây chuối cao bằng đầu người, nói :
- Ông đứng đây, rồi bất ngờ làm một cử động thôi ...
Koji quay về chỗ trước cây chuối, lại đứng bất động, mắt nghiêm nghị nh́n nh́n vào khoảng không trước mặt, kiếm vẫn ở trong vỏ giắt sau lưng. Một phút, rồi hai phút ... Toàn Nhật không chịu nổi nữa, vừa nhích chân th́ mắt hoa lên ba lằn quang như ánh chớp, đầu như tê liệt trước tiếng hét chát chúa. Ngửng lên nh́n, Koji đă trở về trạng thái cũ, và kiếm tra lại vào chiếc bao dắt sau lưng. Toàn Nhật thở phào sửng sốt. Koji lại bảo :
- Ông lấy tay đẩy vào thân cây chuối mà xem.
Cây chuối mới nh́n vẫn vậy, bất động, tàu lá chỉ hơi rung rung. Đẩy vào, bốn mảnh thân cây đổ xuống đất, tiếng rơi b́nh bịch. Cây chuối đă mất đầu, rồi mất nửa ḿnh, và thân bị chẻ hai. Toàn Nhật lùi một bước, hoảng sợ, đầu gối nhũn ra, ngỡ ngàng chẳng biết là hư hay thực. Koji cất tiếng :
- Phép đánh kiếm của Phù Tang không múa như phép đánh kiếm của lục địa. Múa là để làm hoa mắt kẻ địch, dùng mẹo đánh vào chỗ sơ hở. C̣n chúng tôi, chúng tôi đánh là thể hiện sự toàn mỹ và đồng nhất giữa lư trí với hành động của người cầm kiếm. Đích chính là ở Ta, c̣n kẻ địch chỉ là đối tượng để thể hiện cái Ta nên kẻ địch là phương tiện, có hay không, không quan trọng ... Kiếm pháp các ông nhằm triệt tiêu đối tượng. Đối tượng là đích, v́ thế dùng mưu mẹo lừa cho đối tượng lầm lẫn để thủ thắng. Một đằng, kiếm và người là Một. Một đằng, người là chủ, kiếm là phương tiện và đặt kẻ địch thành đối tượng. Vâng, khác biệt là như thế đấy ...
Toàn Nhật nh́n cḥng chọc vào Koji, ngạc nhiên hỏi :
- Khác biệt thế th́ tác động thế nào ?
Koji cười hồn nhiên :
- Thắng và thua, sống và chết, không c̣n ǵ khác nhau nữa. Chỉ c̣n độc một cái là cái Ta được thể hiện măn mỹ ở đúng cái giới hạn sẵn có của nó, thế thôi !
Vỗ vai Toàn Nhật, Koji đổi giọng :
- Nếu ông muốn, ta c̣n bàn nhiều về kiếm. C̣n công việc, cái điều kiện ông đặt cho tôi, tôi đă nghĩ kỹ.
Ngưng lại rồi chặc lưỡi, Koji tiếp :
- Mà này, ông có thấy ở đâu cái chuyện người làm đặt điều kiện cho chủ không nhỉ ? Chắc là không đâu ! Tôi nhận điều kiện của ông, nói thế, nghĩa là không c̣n ai là chủ và ai là người làm công ... Kể từ nay, chúng ta là bằng hữu.
Toàn Nhật lùi lại, bàng hoàng trước thay đổi đột ngột không ngờ trước, mồm lẩm nhẩm :
- Không dám, không dám !
- Bằng hữu ạ, Koji này đă làm ǵ để không xứng đáng với t́nh bạn của anh ?
- ...
- Và một ngày nào đó, tôi sẽ cầu xin bạn một ân sủng. Đổi lại, tôi sẽ truyền hết sở học về cung kiếm của tôi cho bạn.
- Ân sủng ?
- Vâng, ân sủng. Tôi nói ngay : ân sủng này là cho tôi, và không hề đụng chạm đến một ai khác, bất cứ ở phương diện ǵ !
*
Theo lời mời của Koji, Toàn Nhật dọn sang tư dinh, cư ngụ ở trái nhà phía tay phải, căn nhà chính giữa là nơi Koji ở, bên trái có xây một trà thất vuông vắn, mái như mái tháp. Từ trà thất nh́n ra sau là một cái hồ rộng ba thước ta, thả sen và nuôi những con cá đỏ chót to bằng cá trê. Chiều chiều, Koji ra đứng dựa trên chiếc cầu nhỏ vắt ngang hồ, cho cá ăn, miệng ề à hát :
Furuike ya ( trong ao xưa )
Kawazu tobikomu ( con nhái nhẩy vào )
mizu no oto ( tiếng nước khua )
Công việc giao phó cho Toàn Nhật tương đối nhàn nhă. Nhật tiếp nhận trầm hương đến từ Thanh, Nghệ, lụa từ Hà Đông, gấm từ Kinh Bắc, sừng hươu nai và xương hổ từ Sơn Tây, Cao Bằng. Koji Mishima kiểm tra chất lượng xong, cho phép bốc lên thuyền để chở về Okinawa, một ḥn đảo cực Nam đất Phù Tang. Đổi lại là súng đạn và đao kiếm. Nhật lại kiểm kê hàng Phù Tang, lên danh sách, chuyển giá thỏa thuận ra vàng hoặc bạc, và trách nhiệm chuyển hàng về Thăng Long cho quan Chánh dường Hoàng Tế Lư.
Tối tối, hai người lại ra luyện kiếm. Nơi Koji dạy Toàn Nhật nằm sau trà thất. Họ ngồi đối mặt vào nhau, mắt nhắm hờ, ở tư thế thiền tọa.Cây đào Phù Tang rực lên cháy hồng một khoảnh không gian ven hồ nước lóng lánh sáng. Gió khuya gây gây lạnh. Trời đất tấu khúc đêm về, âm thầm những niềm hạnh phúc mỏng mảnh gió tháng chạp. Thỉnh thoảng, cá quẫy nước lục bục điểm vào tiếng ếch ương thảng thốt kêu dưới những tàn lá sen ven hồ. Mùa này, sen đă úa cả, không sao t́m đâu ra chút hương thoang thoảng lẫn mùi bùn tanh. Ở đầu gió, không khí lùa mùi thơm ngan ngát từ hàng cây dạ lan mọc cạnh tường nhà thoảng lại.
Koji cất tiếng, tay chỉ vào đầu :
- Nhanh không phải ở tay nhanh ! Nhanh là ở đây. Cái nhanh đó từ phản xạ. Một phản xạ không điều kiện. Đến độ đó, thực ra, phản xạ của cái đầu là cái lắng đọng từ sự chín chắn.
Mắt xa vời, trống không, giọng không thấp không cao, Koji ề à từng chữ :
- Sống kiếm là đường đi vào cái đích. Là đạo. Không rút kiếm ra nếu không cần. Đă rút, nhập vào cái đích, thành Một. Đầu, tay, kiếm và cái đích thành một thể bất phân nằm trên sợi tơ ranh giới căng ngang để nối liền sống - chết.
Koji đứng lên, chân vừa rùn bước là tay lóe ra một lằn quang ở trên chụp xuống, nhanh như ánh chớp dọc. Nh́n lại, Koji đă trở lại thế đứng b́nh thường, kiếm không biết lúc nào lại tra lại trong bao giắt chéo về phía trái theo chiều sống lưng. Nắm bàn tay Toàn Nhật đặt vào đốc kiếm, sửa lại thế đứng, Koji bảo :
- Tất cả là hơi thở. Rút, hơi ngưng. Chém, thở ra, khí thừa trụ xuống bụng dưới. Bây giờ anh tập đi. Rút và chém một trăm lần.
Nét mặt Nhật nghiêm lại, mắt ánh lên. Cứ như thế, Nhật rút và chém. Một lúc sau, Koji ra dấu cho Nhật ngưng kiếm, nh́n Nhật rồi nhỏ nhẹ :
- Anh vừa chết đủ một trăm lần đấy. Không đủ nhanh và chắc. Hơi thở từ rút đến chém bị đứt đoạn. Anh biết tại sao không?
Nhật lắc đầu.
- Khi anh rút kiếm, mắt anh có ánh lên thứ ánh sáng lóe đỏ màu căm hờn ! Chính sự căm hờn làm cái đầu không liền lạc với cái tay. Anh phải từ từ rũ bỏ sự căm hờn đó th́ anh mới đạt được. Ba mươi năm nay, ngày nào tôi cũng rút và chém đúng trăm lần. Cả đời, tôi độc có ba đường gươm, chỉ thuần thành sau khi dứt bỏ được mọi vọng niệm ...
Nhật đưa giải áo lên lau mồ hôi trán. Ta căm hờn ư ? Căm hờn cái ǵ ? Ai ? Không biết. Nhưng có cái ǵ đó thúc giục, ấm ức. Nó như ở lặn trong ḷng, vô lư vô lẽ, ùa ra để trừng phạt, phá phách không chủ đích.
Koji đến bên Nhật, nắm vai, đẩy Nhật về phía ven hồ :
- Sự căm hờn giảm ở đường gươm thứ ba. Đường gươm đó nhanh hơn ...Này bạn, có ǵ bạn cứ nói, sao lại để trong ḷng ?
- . . .
- Có lẽ chính bạn, bạn cũng chẳng biết nỗi căm hờn đó từ đâu đến, ở đâu ra ! Nó là Karma, nghiệp chướng. Cũng có lẽ, may ra th́ kiếm đạo sẽ giải cái nghiệp ấy. Đường gươm thứ ba của bạn nhanh hơn có nghĩa là nghiệp của bạn nhẹ đi...
Cất tiếng cười ha hả, Koji lại ê a hát, giọng khàn đặc nghe đặc quánh một đêm sáng trăng.
- Hẳn mùa xuân năm nay cũng đến sớm hơn.
Koji vui miệng kêu lên, mặc nét đăm chiêu vờn trên đôi mắt Toàn Nhật trũng sâu bóng tối.
*
« Quan Chánh dường Hoàng Tế Lư đến Phố Hiến hẳn không phải là chuyện thường » , ông Śn vừa nói vừa tiếp tục gẩy bàn tính nghe lách cách :
- Cậu biết không, trước nay chỉ có công tử Đăng Khoa xuống xét việc quan thôi, chắc lần này có chuyện quan trọng đấy.
Toàn Nhật nghe lơ đễnh, nh́n ra sông, hỏi :
- Chuyện ǵ ? Ông có đoán ra không ?
- Không, nhưng Quan Chánh muốn gặp cậu ngay. Đúng giờ Tị ngày mai, cậu đến dinh quan huyện như ước hẹn, qua đây đi cùng với tôi cho vui.
Toàn Nhật ra khỏi hiệu thuốc, ngược phố Khách rồi tách về phía tây, lững thững đi về phía khu Nhà Thờ t́m Trọng Thức.
Sau khi được thả, Thức c̣n nấn ná ở Thăng Long ít lâu. Nguyễn Thiếp giục măi, Thức mới rời đi Phố Hiến độ đă hơn tháng nay. Nhật đă nghe đủ chuyện Kinh Kỳ, từ cái âm mưu nhà Chúa phế Tông lập Cán, cho đến chuyện Tế Lư o ép phu tử đồng ḷng việc soán ngôi vua bằng thủ đoạn lừa bỏ Thức vào ngục. Nghe Nhật báo rằng Tế Lư mai sẽ xuống Phố Hiến, Thức cười nhạt :
- Thế lực hắn vậy đă đủ chắc rồi mới bỏ Kinh mà đi được ! Nhưng có chuyện ǵ hắn phải đến đây ?
- . . .
- Dẫu sao th́ Nhật cũng cứ phải gặp hắn. Và chớ quên là thấy rắn mà không đập được đầu th́ tránh cho xa.
Nhật gượng cười, lơ đễnh :
- Công việc anh làm đến đâu rồi ?
Thức đứng dậy lôi từ hộc tủ một thếp có đâu đến cả trăm tờ giấy được xếp gọn ghẽ. Nhật cầm lên chăm chú lật ra từng tờ : một phần quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa- La-tinh đă được bổ sung và tra cứu lại bằng công sức của Thức và giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès. Thức hân hoan nói như reo :
- Dùng mẫu tự La-tinh để phân âm tiếng ta không khó khăn ǵ ! Duy có một số chữ chưa chỉnh. Như Đức Chúa Trời, ngày trước họ viết thế nào mà đọc ra là Đức Chúa Blời ...
Thức mơ màng, nói tiếp :
- Nhưng đó là tiểu tiết. Nếu dùng mẫu tự này, chỉ cần dạy ba tháng là một đứa bé lên sáu có thể đọc thông thạo dễ dàng. Như vậy, cái đống kinh sách phải học để đi thi thành ông tú, ông cử th́ chỉ hai đến ba năm là ai cũng làu làu ... Ha ha, bút sắt sẽ thay bút lông để đuổi cho sạch giặc dốt !
Vừa lúc ấy, một người cao lớn bước vào, miệng lơ lớ nói : « Chào các ông ». Charles-Antoine Sieyès trạc trung niên, râu quai nón, lưng hơi kḥm nhưng dáng nhanh nhẹ. Nghe Toàn Nhật hỏi thăm, ông ta cười : « Giê-su-ma lậy Chúa tôi, b́nh an, b́nh an ! » và thân mật nắm tay Thức, nói ngọng nghịu :
- Ông có lư, chuyển âm La-tinh sang tiếng Nôm phải chính xác, không nên lẫn lộn x với s, d với z. Chẳng hạn như xa với sa ... nghĩa khác hẳn. Nhưng thôi, trưa mai tôi không làm việc với ông được v́ phải lên Huyện chầu quan lớn từ Kinh xuống ...
Nét lo lắng, Charles-Antoine th́ thào : « Không biết có chuyện ǵ ? Cầu xin Đức Mẹ ban phép lành cho giáo hữu ! ».
Charles-Antoine không rơi vào trường hợp một giáo sĩ b́nh thường. Ông ta vốn là anh em song sanh của Emmanuel Sieyès, một nhân vật khá lạ lùng của đám trí thức ở Paris, thường lui tới nhà ḍng Jacobin phố St-Honoré. Mặc dầu xuất thân là quí tộc, Emmanuel học trong Ḍng Tên, trở thành phó linh mục ở Chartre, nhưng lại thân cận với những người Hội Thánh cho là bất hảo, mỗi tối thứ tư là hội họp, rồi cùng nhau in những tờ báo truyền tay. Cảnh sát Pha Lang Sa được lệnh truy nă Emmanuel, nhưng lại bắt nhầm Charles-Antoine v́ h́nh dáng hai người giống hệt nhau. Lúc đó Charles-Antoine vừa được thụ phong linh mục. Vị giám mục nhà thờ Đức Bà can thiệp, với điều kiện Charles-Antoine xung vào Hội Truyền Giáo Paris đểù đi giảng đạo cho đám con chiên chưa được khai hóa ở tít tắpViễn Đông. Ngài lạnh lùng kết luận : «Có ǵ đâu mà oan, thầy chính là Emmanuel, mặc áo nhà ḍng và mang tên Charles-Antoine. Đây, cảnh sát đưa trả nhà thờ sách vở của thầy. Có đủ loại sách Giáo Hội đă ra lệnh cấm. Sách của Rousseau, sách của Voltaire, sách của Montesquieu. Và cả những tờ giấy truyền đơn của đám vô thần bất hảo ở phố St-Honoré ».
Bứt rứt nh́n Thức, Charles-Antoine tỏ vẻ lo ngại. Kinh nghiệm cho ông biết là gập quan càng to th́ tai họa càng lớn. Dạo hai năm trở lại, giáo hữu bị đẩy vào thế cùng, có lúc đă định trang bị giáo mác để tự vệ. Biết rằng như thế là rơi vào cái bẫy để cho Triều đ́nh đàn áp bằng vơ lực, ông đă phải viện một trong mười điều nghiêm cấm của Thiên Chúa, tuyệt đối không cho giáo hữu tự vũ trang, nếu trái lời có thể bị rút phép thông công.
Toàn Nhật cảm thấy ngài ngại, chắp tay cáo từ, nói với lại với Thức :
- Koji nhắn mời anh đến dùng trà ngày tṛn trăng, nhớ nhé !
*
Hôm sau, Nhật lên dinh quan Huyện . Vừa vào cửa, Nhật thoáng thấy bóng lăo Thuyết chủ chiếc quán ven sông lẩn nhanh ra sau, tự nhủ thầm là người làm cho Viện Nội Mật quả thật len lỏi khắp nơi.
Hoàng Tế Lư vẫơy vào. Nhật chắp tay thi lễ, rồi đứng dưới trướng đợi như dăm ba người mặt quen có, mặt lạ có. Lư đứng dậy, tươi cười nắm tay Nhật, kéo riêng ra cửa sổ ở cuối pḥng, miệng bảo :
- Thật là chóng, thế mà đă mấy tháng cháu rời Kinh rồi.
Tế Lư báo Nhật biết tin phu tử sẽ ăn Tết ở Thăng Long, sau mới về Nghệ An, nhưng tuyệt nhiên không đả động ǵ đến Trọng Thức. Cuối cùng, Tế Lư dặn Nhật về nhắn Mishima cứ đợi ở nhà, khi hết việc trên huyện, đích thân Lư sẽ tới thăm ngày mai.
Ôm vai Nhật đưa ra cửa, Lư bảo :
- ... ngày nào đó về Kinh, ta sẽ đích thân dạy cho vài đường kiếm họ Hoàng.
Nh́n xoáy vào mắt Nhật, Lư rành rọt :
- Kiếm gia truyền không bao giờ ai lại dạy cho người dưng. Cháu phải biết, không như kiếm cách của Phù Tang đâu !
Nhật ớn lạnh xương sống, ngay việc tập kiếm với Mishima cũng đă đến tai Lư. Mọi việc lớn nhỏ ở Phố Hiến không phải là qua được cặp mắt và tầm tay của Viện Nội Mật.
Khi chia tay, Toàn Nhật cúi đầu vái Lư dưới thềm. Đột nhiên, mặt chàng rừng rực nóng. Hít không khí vào đầy lồng ngưc, Nhật chậm răi thở ra, nhưng mắt chợt thấp thoáng bóng người đàn bà ở miếu Ba Cô, lưng quay về sông Nhị, tay phe phẩy gió.
Nhật về thẳng nhà để báo tin. Koji đặt chén nước uống xuống bàn, tay mân mê chiếc quạt. Đẩy chiếc mành cửa chạy dọc, vuông sân trải sỏi trắng hiện ra, trống trải, mông lung, lờ mờ những nếp gợn đều đặn đồng tâm như gợn nước. Ở góc sân, phía mặt trời mọc, ḥn đá tảng màu xanh ngắt trơ vơ.
Koji trầm ngâm, quay sang Toàn Nhật hỏi :
- Quan Chánh dường không dặn giờ nào ?
- Không.
- Bằng hữu, Koji nhăn mặt, chúng ta phải tiếp ngài cho dúng phép tắc và nghi lễ Nhật Bản.
Dặn ḍ Nhật ra lệnh cho gia nhân đốt đèn lồng lên, Koji lại bắt tất cả mọi người phải mặc trang phục đại lễ. Ngoài ra, Koji bắt t́m ngay bốn mươi chín con bồ câu trắng để khi quan đến, thả cho bồ câu chân buộc nhiễu bảy sắc bay lên.
Koji vỗ vai Nhật, mỉm cười, hỏi thẳng :
- Sáu năm qua, ai làm với tôi đều bí mật báo công việc về Kinh. Riêng bằng hữu là không phải làm chuyện đó, sao lại vậy ?
Thấy Nhật ngơ ngác, Koji xuề x̣a tiếp :
- Nhưng nào có quan trọng ǵ ! Quan Chánh dường đến tận đây th́ có lẽ chúng ta sắp phải chia tay. Có hợp, ắt có tan. Bạn hăy nh́n mây trời ...
Toàn Nhật sửng sốt. Sao ? Tại sao ? Gió mỗi lúc một nhanh lên. Trên trời mây vỡ thành những con chim ùa ra vỗ cánh trôi đi tan tác. Chàng quay lại, tay nắm lấy Koji, hốt hoảng :
- Tôi không hiểu ?
Koji đứng lên, cười nghiêm nghị, rồi thoắt ra cửa, mồm gọi đám gia nhân sửa soạn công việc tiếp đón khách nhà quan.
Tối hôm ấy, Koji bận xét lại sổ sách, sột soạt đến khuya. Toàn Nhật tập kiếm một ḿnh, chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng hát khàn đặc, ê a vẳng lại.
Xế chiều ngày hôm sau, khi mặt trời mới chếch về tây, tiếng chân ngựa rầm rập. Koji hét cho gia nhân mở rộng hai cánh cổng chính. Những con bồ câu trắng chân buộc giải nhiễu bảy sắc đập cánh bay lên. Tế Lư oai vệ bước vào, đi ngay sau là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh được điều từ Duyên Hải về Phố Hiến, mang chiến thuyền đến đón Lư đưa về Kinh bằng đường thủy. Koji khom người đưa Lư lên ngồi, rồi quay về qú bên cạnh Toàn Nhật, xử sự theo phong tục Nhật Bản của kẻ bề dưới đối với người trên. Tế Lư yên vị, tay rút ra một cuộn giấy, lẳng lặng đọc tuyên chỉ do chính chúa Trịnh Sâm truyền :
« Năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi mốt. Hạ chỉ giáng phong kiều nhân Koji Mishima, người đất Phù Tang, là Đông Ngoại Hầu, hàm nhất phẩm, và truyền cho về chầu tại chính phủ vào mồng hai tết Nguyên Đán năm Tân Sửu ».
Koji ngạc nhiên, nhưng vẫn trầm tĩnh, gập đầu xuống đất miệng cảm tạ, quai hàm cắn chặt làm nổi những sợi gân xanh trên thái dương. Tế Lư đứng dậy, xuống nâng Koji lên, miệng tươi cười :
- Ngài là quan nhất phẩm của triều đ́nh, tước hầu cũng như tôi, xin ngài cư xử như đồng liêu.
Quay sang Nhật, Lư cũng đưa một tờ sắc chỉ, tiếp :
- ... mở ra, cứ mở ra đọc đi.
Nhật chăm chú : « ... nay truyền cho Vơ Toàn Nhật nhậm chức Chưởng cơ đội Trung Kính, chớ chậm trễ trái lệnh ».
Hữu Chỉnh đứng bên hà hà cười, xen vào : « Mừng Vơ tướng quân, thế là lúc nào cũng được gần gũi quan Chánh, và tha hồ học hỏi để thăng tiến trên đường công danh nhé ».
Đưa tiễn đám quân quan đến tận bờ sông, Koji cùng Toàn Nhật thả bộ về. Nét mặt Koji lúc càng đăm chiêu, lẳng lặng đi như không có Nhật bên cạnh. Trên đê nh́n xuống sông, những cánh buồm trắng chớm ráng đỏ chiều tà trên ba chiến thuyền đă căng phừng phựt gió, lướt phăng phăng về xuôi.
Nhật ngửng mặt lên nh́n trời. Ai đó thả chiếc diều to bằng chiếc nia có gắn những ống sáo trúc. Tiếng sáo văng vẳng bay theo sức gió trầm bổng. Chợt Nhật nhớ đến Chương Tề Vật trong Nội Thiên của Trang Tử. Chàng lẩm bẩm :
« Hiện nay ta mất ta, mi biết thế chăng ? Mi nghe biết sáo người mà chưa nghe biết sáo đất ? Mi nghe biết sáo đất mà chưa nghe biết sáo trời chăng ?
Chàng ngạc nhiên nghe Koji đọc tiếp, giọng ê a :
«…Ḱa gió thổi nên muôn tiếng không giống nhau. Nhưng mà khiến cho nó tự thôi đi, hoặc nó tự gào lên, ấy là ai ?».
*
Trọng Thức khom lưng qú gối chui theo Toàn Nhật qua cánh cửa vừa lọt người vào trà thất. Ngồi dợi bên trong, Koji vái chào hai người :
- Đa tạ bằng hữu, đêm nay trăng vừa đúng độ, thú vị vô cùng.
Trà thất rộng độ hai mươi thước vuông, cao vừa đủ chiều cao một người đứng, trang trí sơ sài, vách là giấy bồi trên những khung gỗ. Theo lệ, không có ai được mang đao kiếm vào trà thất, khom người chui vào là để dập cho tắt cái kiêu, gây lại đức khiêm, và uống trà trong thể ḥa, cái thế tĩnh lặng của bản thể. Koji nhẹ nhàng kéo khung cửa sổ. Ở chỗ ngồi, tầm mắt của cả ba người là chiếc cầu vắt qua hồ, và bờ bên kia là cây đào Phù Tang sớm nở hoa. Loại đào này Koji mang sang từ vườn nhà ḿnh, hoa sống thường được xuưt xoát ba tháng, từ tiết lập đông cho đến khi qua Tết. Koji nh́n Thức :
- Bằng hữu là anh của Toàn Nhật nên là khách quí của tôi. Từ ngày cư ngụ Phố Hiến, bằng hữu là người thứ nh́ tôi có cái hân hạnh mời vào trà thất. Hai năm trước đây, tôi có tiếp một vị, tên là Tiệp Dư, tự xưng ḿnh là cuồng sĩ ở Hoan châu, không biết giờ này ông ta trôi giạt đến nơi đâu ?
Vừa nói, Koji vừa thoăn thoắt xoay tṛn một cái chổi tre trong chiếc bát gỗ to bằng bát canh. Bên cạnh, chiếc nồi đồng reo lên như hát, hơi nước phun lên từng lớp. Chiếc nồi rất đặc biệt, chính giữa là một trục rỗng chứa những ḥn than đốt đỏ, nước trong nồi xung quanh trục sôi rất đều. Trịnh trọng đổ nước vào những lá trà xanh trong bát đă đâm nát, Koji cẩn thận sang ra những chiếc chén to bằng chén tống, rồi sụp người vái khách mời uống.
Ngoài trời, trăng tṛn vằng vặc. Thỉnh thoảng, tiếng chim ăn đêm vảng lại. Koji đưa tay ra nâng chiếc đàn Koto treo trên vách, nghiêm trang :
- Tôi xin hát hầu hai bạn
Tay nhẹ nhàng gẩy lên những tiếng khoan nhặt thưa thớt, miệâng Koji ê a :
Kareeda ni ( Trên cành khô )
Karasu no tomaritaru ya ( chim qua đậu )
aki no kure ( chiều tàn mùa thu )
Tiếng hát đứt quăng nghe năo ruột. Koji ngưng hát :
- Đây là thơ thể haiku. Cứ năm âm, bảy âm rồi năm âm là dứt .
Toàn Nhật vui miệng :
- Thơ tứ tuyệt, mỗi câu bốn chữ, cộng lại là mười sáu âm. Anh Thức dịch hộ đi xem.
Thức ngẫm nghĩ rồi đọc :
Cành khô quạ đậu
chiều tàn âm u
hơi may lành lạnh
đâu đây mùa thu
Nh́n ra cây đào Phù Tang ở bên kia hồ, Thức nhẩn nha tiếp :
- Tôi thêm vào câu thứ ba, thưa nó không ở bài Haiku gốc. Buộc phải thế cho đủ mười sáu âm trong nhạc thơ tứ tuyệt, nhưng dịch như thế là chưa phải. Theo tôi, phải làm sao có đủ mười bảy âm và giữ được thể nhạc mới đúng là dịch thơ.
Koji ầm ừ, bỗng như xa vắng hẳn, im lặng một lúc rồi khàn khàn lên tiếng :
- Thầy từ hai đời của tôi là Kamono Mabuchi, người đă sáng tác ra thể Waka gồm ba mươi mốt âm ngữ. Cho rằng cái học đến từ Trung Quốc làm cho dân Nhật không c̣n chân thực và thuần phác như thể hiện qua những vần cổ thi trong thiên Manyoshu, ngài cổ vũ Quốc học phái Kokugaki. Sau, học tṛ ngài, là Motoni Norigana tiếp tục con đường đó, nghiên cứu cổ sự kư Kojiki, cho rằng phải trở về gốc là Đại ḥa tâm Yamatogo koro, đưa nước Nhật về thời Kodai (Cổ đại) inishie (thuở xưa), bỏ hết phép tắc Tống nho đă khiến dân Nhật quá ‘’khôn ngoan’’ mà thành ra những kẻ tội nghiệp đáng thương...Norigana là thầy, Sansei, của tôi.
Koji ngưng nói, xoay chén trà trong tay, rồi bỗng cười nhẹ :
- ... Lư tưởng là thuở ngày xưa đằng sau, mà tương lai th́ mênh mang trước mặt. Người Ḥa Lan đến Nhật Bản với súng ống, giúp Shogun Ieyasu Kokugawa thống nhất sau một thế kỷ nội chiến. Rồi sau là người Bồ, người Tây ban Nha. Thế giới không c̣n thu lại một mảnh quần đảo. Thuyền buôn tới, thuyền buôn đi, cứ mỗi lần lại thấy khác, người khác, hàng khác. V́ thế, nếu quay về quá khứ mà sống th́ làm sao có thuyền Nhật Bản cũng ra khơi hội nhập vào giao thương thế giới ?
Sansei Norigana mắng tôi : « Gốc ở ḿnh không biết rơ, nhằm mang cái biết ngoại vật th́ chỉ nhiễu loạn ! ». Nhưng thực ra, ngoại nhân đă đến nước Nhật rồi, và dẫu có bế quan tỏa cảng th́ cũng chẳng được lâu, cho nên tôi xin lên đường, rồi tháng tháng thư về cho Sansei, kể những chuyện tai nghe mắt thấy ... Là vũ sĩ, tôi nay lệ thuộc vào giai cấp thương gia, nhưng ôm trong ḷng mối nợ Sansei. Bỏ thầy đi, tôi chỉ mong t́m ra một cái nh́n rồi một ngày nào đó trở về qú dưới chân người dâng lên một cách nh́n mới. Tôi đă giấu giữ được một trong ba mươi hai bản mộc Kaikodu Heidan của Lục Vô, con người « không vợ, không con, không cha mẹ, không bản mộc, không tiền và cũng không muốn chết », đang bị giam chung thân. Đọc xong, Sansei quẳng trả sách, bảo tác giả nó đă mất tính giai cấp vũ sĩ v́ không phải là không muốn, mà là không dám chết.
Hai năm sau, tôi dâng lên tập Seiku Monogatori ( chuyện các nước phương Tây) do Honda Toshiaki lược thảo, chủ trương khuếch trương kinh tế và phát triển mậu dịch. Sansei tôi quát : «... thôi, đi đi. Trở thành thương nhân là cái gốc giai cấp của mi. Nước Nhật không cần hạng người này ! ». Từ đấy tôi lên đường vượt biển qua Ấn Độ, rồi Mă Lai, và mấy năm nay đến ngụ Phố Hiến. Nay muốn đi cũng chẳng đặng - Koji thở dài, ôm lấy cây Koto, bật giây, ê à - nhưng thế mới gặp được các bằng hữu.
Koji lại hát :
Những con kiến nhỏ nhoi
chạy hàng dọc trên cành đào gẫy
Ai bỗng ngừng tay thoi
Giọng hát ngân nga năo nùng, thỉnh thoảng chen vào tiếng cá quẫy trong hồ, và tiếng dế mèn kêu đêm. Thức nâng chén trà, nghĩ ngợi mông lung. Những vấn đề Koji đặt ra cho Nhật Bản cũng là những vấn đề đặt ra cho xứ sở này. Nhưng họ, họ có những kẻ như Lục Vô Shihei, như Toshiaki. C̣n ta, hừ, ta chỉ độc toàn những người nhắc lại Tam Cương, Ngũ Thường, và rủ nhau ngâm vịnh. Thức lại xót xa nhớ Dương Quang, người bạn tù, cũng đă từng lên đường lưu lạc như Koji.
Toàn Nhật phá vỡ bầu im lặng :
- Đêm nay sương xuống, lại có trăng.Các vị chắc c̣n nhớ Lư Bạch, « Cử đầu vọng minh nguyệt. Đê đầu tư cố hương ». Đó là nỗi ḷng của Koji. Xin anh Thức ngâm cho chúng tôi nghe ?
Trong đầu Thức, những câu thơ tuyệt diệu vẳng lên. Nhưng cổ họng thắt lại, Thức bùi ngùi :
- Nghe chuyện Koji kể, tôi vừa lập thệ rằng từ nay sẽ không ngâm vịnh ǵ nữa. Bây giờ bao nhiêu điều khác cần hơn. Đă gấp rồi !
Koji để ư trên khóe mắt Thức thoáng đọng chút ǵ long lanh như ngấn nước có lửa.
*
Khoảng tháng chạp, những vườn mai chạy dọc theo đê sông Nhị đă chớm vàng. Quán lăo Thuyết tấp nập hơn. Khách thương ra vào, hàng hóa bốc dỡ cứ như theo độ Xuân về, ào ạt chiếm cứ những khoảng đất có căng những mái tranh làm tạm để tránh mưa chặn nắng. Theo lệnh Tĩnh-đô Vương Trịnh Sâm, đám giáo hữu Gia Tô phải rời qua Đa Phạn, một miệt biển ở trấn Thanh trước Tết, lư do đưa ra là dân tả đạo không được làm nghề nông mà phải chuyển sang nghề khác. Thật mà nói, Sâm nhượng bộ đám cường hào muốn chiếm đất của giáo hữu, đă ba lần bẩy lượt làm áp lực lên bọn quan phiên. Dân Phố Hiến xôn xao bàn bạc, kẻ phải đi t́m mối bán ruộng bán đất, người ở lại ḱ kèo d́m giá, và cư dân vùng Thái B́nh mon men xuống t́m cách lấn đất định cư. Bọn thư lại Huyện có dịp làm tiền, mặt mũi trông rơ ra kênh kiệu trước cái nhớn nhác của đám con chiên Chúa Blời. Giáo sĩ Sieyès từ Phố Hiến vào Đa Phạn, đi đi về về mấy lượt, đầu óc căng thẳng nhưng vẫn giữ được nụ cười sau hàm râu quai nón lớm chớm bạc. Công việc bổ xung từ điển Việt -Pha Lang Sa- La tinh ngưng lại mặc dầu Trọng Thức đă bước đầu hoàn chỉnh phương cách phiên âm chữ nôm bằng mẫu tự An-pha-bê. Phần Toàn Nhật, chàng phải thanh toán tất cả sổ sách của Nhật Bản thương vụ. Koji đă quyết định ngưng công việc ở Đàng Ngoài cuối tháng này, ngày nào cũng đăm chiêu viết lách, bỏ mọi sự ngoài việc tập kiếm với Toàn Nhật mỗi tối.
Trưa hôm ông Táo về chầu trời, mưa bụi lất phất bay. Vài ngày nay, gia nhân đă lần lượt về hết, nhà chỉ c̣n một ông lăo bộc lo việc cơm nước. Suốt đêm trước, Koji lục xục viết lách. Sáng ra, Koji đốt trầm, ngồi im lặng nh́n về phía sông, mặt mũi tươi tỉnh. Tiếng đàn Koto lại vẳng lên, đứt khúc, ḥa theo giọng hát ê a theo tiết âm thơ Haiku, lúc nào cũng như nghẹn ngào oán thán. Đúng ngọ, Koji mời Toàn Nhật ngồi uống Sakê. Koji rót rượu rồi trầm giọng hai tay đưa lên, nh́n Nhật đăm đăm một lúc, nhẹ nhàng :
- Bằng hữu! Tay kiếm bạn bây giờ khá rồi. Ánh căm hờn chỉ c̣n thấp thoáng đường gươm đầu, nó đang dần dần tan đi ...
Đẩy thanh gươm về phía Nhật, Koji tiếp :
- Thanh gươm này đă sáu đời là gươm ḍng họ vũ sĩ Mishima. Đến Phố Hiến, từ nay nó thuộc về bạn.
Đưa tay chặn không cho Nhật nên lời, Koji tiếp, giọng nghiêm nghị :
- Xin chớ chối từ, gươm này thuộc đẳng cấp vũ sĩ, chỉ có thể trao lại cho vũ sĩ. Và dưới mắt Koji này, bằng hữu là vũ sĩ ḍng Mishima kể từ khi bằng hữu học đường gươm đầu, đổi lại là một ân sủng như tôi đă thưa. Nhưng thôi, khoan nói đến chuyện ân sủng vội ...
Nh́n ra vườn đá sỏi hoang vu lờ mờ gợn những ṿng không của dấu vết tạo thiên lập địa, Koji im ắng một lúc, rồi lại ê a :
- Chắc bạn không biết tại sao tôi được Tĩnh-đô Vương phong hầu ?
- ...
Tay mở chồng giấy xếp gọn ghẽ trong một cái khay sơn mài vuông vắn, Koji đưa một tờ cho Nhật, hàng chữ đầu đề « Luyện kim yếu pháp », giải thích :
- Vương phong hầu cho tôi là mong đoạt yếu pháp này. Sáu năm trước, tôi có giao hai mươi khẩu súng thần công lên Kinh. Bắn thử, đường đạn lệch lạc không chính xác như những khẩu trước. Tĩnh-đô Vương quở, và cho mang súng trả lại. Nhật Bản thương hội phái thợ rèn, mang yếu pháp qua đốt ḷ làm bễ, sửa ṇng súng. Sửa được, nhưng Vương biết, đ̣i lấy yếu pháp. Tôi bảo thợ rèn đi trốn, khai với Vương là không có, bảo rằng yếu pháp đă được đem về Phù Tang. Dĩ nhiên là Vương không tin, cấm tôi không được rời Phố Hiến, cho người theo giám sát.
A ha, nếu Đàng Ngoài này mà rèn được súng th́ Đàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế ... Tôi không nhận th́ không được. Tôi nhận mà không làm ṇng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng th́ biết bao nhiêu mạng người Đàng Trong sẽ tiêu vong ... Ôi chao, cái nghiệp này chỉ nghe qua tôi đă rùng ḿnh rồi, bằng hữu ạ !
Koji đưa tay gạt một sợi tóc x̣a trên trán :
- Đàng Trong đánh, Đàng Ngoài đỡ. Rồi Đàng Ngoài đâm, Đàng Trong chém - Koji cười nhạt - cứ thế đă cả trăm năm rồi. Đâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không ! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau măi th́ cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp c̣n nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô h́nh vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể.
Koji châm ḷ, tay cầm từng tờ giấy xé ra từ cuốn « Luyện kim yếu pháp », thủng thẳng bỏ vào lửa, trầm ngâm nh́n tàn giấy sém đỏ cong queo.
Koji nói tiếp :
- Trí tri ư ! Tốt. Nhưng nếu ư không thành th́ tâm không chính. Lúc ấy cái biết nó quay lại tàn hại con người mà động cơ là dục vọng tầm thường. Bằng hữu , đôát xong «Luyện kim yếu pháp » là tôi sẽ bước chân vào một con đường. Nhưng thật ra, con đường đó tôi đă chọn nó trước rồi, từ ngày tôi đề cập với bạn về cái ân sủng bạn sẽ phát ban cho tôi ...
Con đường đó là đạo : tôi sẽ hành xử theo phép thiết phúc Seppuku để sống trọn vẹn với Sansei tôi là Norinaga. Sau đó, cúi xin bằng hữu gửi đoản kiếm vũ sĩ của tôi về cho thầy tôi, với hàng chữ tôi đă viết sẵn trên mảnh vải này dùng để bọc kiếm ... Tôi viết rất giản dị :
« Đệ tử Mishima thiển nghĩ Đại Ḥa tâm là quá khứ, c̣n tương lai của Nhật Bản ở phía trước, nên làm phép thiết phúc, xin Sansei nghĩ lại ».
Trường kiếm này bằng hữu giữ lấy. Tôi tin bạn sẽ dùng nó như một vũ sĩ chính đạo. Chiều nay, vào cuối giờ Thân, khi mặt trời lặn, kiếm này chặt đầu Mishima, ở chặng cuối cùng của phép Seppuku. Bạn Toàn Nhật, bạn sẽ ban phát cho tôi cái ân sủng tối thượng, giữ danh dự vũ sĩ cho tôi. Vâng, cái ân sủng đó tôi đă xin bạn từ lâu, và đổi lại cho công bằng là ba đường gươm của ḍng họ ...
Toàn Nhật sững sờ, mồm há to, ấp úng kêu :
- Trời ! hỡi Trời ...
Chân tay Nhật cứng ngắc như bị vọp bẻ, nước mắt ứa ra chan ḥa trên mặt. Chàng qú xuống trước mặt Koji, mặt úp xuống đất, tức tưởi :
- Koji, Koji ! Bạn tôi. Ép tôi đến thế ư ?
Đỡ Toàn Nhật lên, vỗ về, Koji nghiêm trang :
- Không ai ép được ai! Đó là một danh dự. Tôi biết là chém đầu không nằm trong cung cách xứ bạn. Nhưng nếu bạn không có can đảm cho tôi cái ân sủng đó, th́ tôi chết đi nhục nhă, thành một con quỉ không đầu, theo bạn đến ba ngh́n năm sau để đ̣i lại ba đường gươm. Ha, ha, bằng hữu ! Mà chết ư ? Nếu không biết sống th́ biết được thế nào là chết. Ta biết chết, bởi v́ ta đă biết sống. Bằng hữu, đừng cho rằng sống chết là hai thể. Một, vâng, « tử sinh đồng nhất thể », đă vậy c̣n sợ ǵ, c̣n tham ǵ ?
Toàn Nhật mím môi, nhắc lại như nói với ḿnh, sống chết chính là một, sống chết chính là một. C̣n sợ ǵ ? C̣n tham ǵ ? « Tử sinh đồng nhất thể - Hà úy hựu hà kinh ».
Nh́n ra sân sỏi, nắng quái ở đâu vừa đến. Phía bờ sông Nhị, cầu vồng sau cơn mưa cong lên làm một nửa ṿng tṛn, đầu bám vào chỗà không có.
Koji phanh áo kimono, kéo cho trễ xuống đến bụng được nịt chặt bằng những cuộn vải trắng cuốn quanh. Rút cây đoản kiếm dài ba tấc để trước mặt, nét mặt b́nh thản đến lạnh lùng, Koji nhắm mắt nhập vào khoảng hư vô bao trùm cơi tạm chốn thế gian. Tiếng sáo, lại tiếng sáo diều trên đê. Sáo người ? Sáo đất ? Hay sáo trời ? Koji nhếch mép cười, tươi tắn nh́n Toàn Nhật :
- Lấy thế đi !
Hai tay cầm lấy chuôi đoản kiếm, rồi quay ngược lại, Koji miệng cười âu yếm nh́n trời, nh́n đất, và bất ngờ đâm mạnh vào bụng dưới phía trái. Đau đớn làm gập người xuống, nhưng Koji lại từ từ ngồi thẳng dậy, miệng khàn đặc ê a : «Những con kiến nhỏ nhoi » rồi đứt quăng, thở hồng hộc, « chạy hàng dọc theo cành đào gẫy ». Koji gắng hát tiếp : « ai bỗng ngừng tay thoi ...».
Thời gian chùng xuống, giăn ra, biến thành chất lỏng trộn vào chỗ vô h́nh vô tướng. Toàn Nhật hươi kiếm ngang đầu, sẵn sàng đường gươm thứ nhất. Koji quát lên, hai tay hết sức kéo cây đoản kiếm lên trên, lưỡi chếch về bên phải. Máu phun ra có ṿi, tràn như nước vỡ bờ, nhuộm đỏ giải nịt vải trắng. Koji gục xuống, nhưng vẫn tiếp tục hát : « những con ... kiến ...nho nhỏ », rồi lại gượng người ngồi thẳng dậy, cổ cong ra phía trước, hét :
- Trảm !
Một nhát gươm lóe lên.
Đó là lần đầu tiên đường gươm thứ nhất Toàn Nhật phát ra mà mà mắt không có một chút căm hờn nào. Trái lại, nó đầy ánh cảm thương. Đó cũng là lần đầu tiên Toàn Nhật chém đầu một người. Oái ăm làm sao, người đó lại là một người Nhật đội ơn và yêu quí.
Đứng như tượng đất, vô hồn, bất động cho đến lúc trời tối hẳn, Nhật mới định thần lại, ̣a lên khóc. Tiếng khóc ban đầu ấm ức trong cổ, sau to dần rồi vỡ tung ra thành tiếng gào, tiếng rú, tiếng sấm, tiếng sét. Vườn bên, trong đêm đen thăm thẳm, bỗng có tiếng mưa lộp độp trên những tàu lá chuối.