Phiêu Bồng Boston
NAM DAO
Riêng gửi Chân Phương
và tặng những người bạn đầu trời cuối đất của tôi
NAM DAO
Lại thêm một chuyến phiêu bồng.
Động cơ lên đường, bạn. Thú thật nhé, tôi thèm bạn như thèm…người yêu. Chao ôi, hình như bạn chẳng khác gì người yêu, trừ chuyện má đỏ môi hồng, và đôi khi dăm ba ảo tưởng có người cho và kẻ nhận.
Bạn có nhà thơ Nguyển Duy (ND) đến từ Việt Nam, nhà thơ Chân Phương (CP), họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi (NTK) và khi đến Boston gặp thêm họa sĩ Văn Dương Thành (VDT), người có một mái tóc dày và dài. Bạn, phải kể thêm những ngày nắng chớm thu, vịnh Hingham với những con tàu neo bến, và dăm cơn gió dịu như năm ngón tay lùa vào ve vuốt mớ tóc bồng bềnh trắng màu sóng biển vỗ bờ.
|
Thuyền buồm trong vịnh Hingham Bay |
Nhà CP trên Spinnaker Island mà nhà thơ cao giọng dịch là Tiểu Bồng Lai đối diện với thị trấn Quincy bờ bên kia vịnh với hàng đèn đường đều đặn chiếu sáng khi đêm xuống. CP đến đón ở phi trường, sau ra Harvard Square đợi hoạ sĩ VDT đang đi xem Bảo Tàng Boston. A ha, vẫn tiệm Au Bon Pain, nơi tôi mỗi ngày ra uống cà-phê khi còn là Research Fellow Đại học Harvard hơn mười năm trước. Tiệm chẳngthay đổi gì, vẫn dãy bàn ghế nhôm sơn sám đen, và ba bốn chiếc bàn đá trên có kẻ những ô cờ vua. Một ông già, ngồi đợi khách đánh, 2 đô một ván nếu thua. Thắng thì hơi khó đấy, tôi không cần quan tâm. Có một cậu bé chừng 7,8 tuổi hầu cờ ông già nhà nghề. Thật lạ, cậu ta đánh những nước cờ khá vững vàng. Tôi nói với ông đánh cờ: ‘’ Not bad’’. Ông ta gật gù ‘’ Not at all!’’. Nhưng ông vẫn thắng, cười, chẳng hiểu có thu 2 đô không.
Quán café AU BON PAIN ở Harvard Square. |
Cậu bé đánh cờ, người châu Á. |
Ba chúng tôi ăn cơm tối xong thì CP lái xe lòng vòng qua khuôn viên trường MIT. Chàng muốn đưa hai kẻ tha phương đến chiêm ngưỡng một bức tượng của nhà điêu khắc lừng danh Henry Moore. Chụp ảnh, ngắm từ tứ phía, và chỉ biết trầm trồ. Chao ôi, từ thế kỷ trước, đã có một người nhìn thấy linh hồn trong những khối kim loại được đúc với những hình thể trìu mến dịu dàng. Tôi gọi bức tượng trong khuôn viên là Mẹ và Con, cách tôi thấy và cảm.
Sau Moore, là hai tượng đài, một cho những nhà khoa học tự nhiên và một cho những nhà triết lý nhân văn. Có Newton, vinh danh hàng đầu, rồi tiếp theo là nào Einstein, Lagrange, Poincarré...Phía kia, Locke, Hume, J.J. Rousseau...Nhìn những người khổng lồ đó đã mở đường cho cả nhân loại này, tôi bé mọn lại chạnh nghĩ đến những kẻ đồng hương trên mạng một diễn đàn trí thức cứ nhắc đi nhắc lại đến giải Nobel Vật Lý năm nay chẳng biết có Higgs, X... và Y... nào đó không? Họ đều mơ đến thứ danh dự đầy hào quang kia, và chắc hiểu con Rồng cháu Tiên ta thì...còn lâu! Nhưng xá gì, hào quang đôi khi xóa cái bóng chính mình, và dư vị những ước mơ quá khổ là mặc cảm tự ti có thể làm bại liệt những khả năng sáng tạo.
|
Henry MOORE - Tượng Mẹ và Con. |
CP lái xe về Tiểu Bồng Lai. Đêm, ánh nước long lanh phản chiếu đèn đường vòng quanh vịnh trực chỉ mỏm đất tôi đặt tên là Đất Mũi, không khỏi nhớ nhà văn NNT ở Cà Mau mà tôi hỏi khó: ‘’ sau truyện vừa Cánh Đồng Bất Tận... sao T nay lại chuyện tốt người tốt rồi ‘’. Khi đó, nàng rất hồn nhiên, đáp gọn: ‘’ Chuyện nào cũng có cái hay của nó’’.Tôi nghe và thầm nhủ, hồn nhiên là bản lãnh của nàng, chắc bụng nàng là một nhà văn đích thực.
Đêm 1, đối ẩm với CP. Khi họa sĩ đi ngủ, chỉ còn hai lão ông ngồi ngắm mặt nước lấp loáng ánh đèn đêm ven bờ nhấp nháy, CP thốt “ Không đèn chài, và cũng chẳng tiếng chuông chùa Hàn San! Tít tắp giải dài đàng xa là đèn Quincy, một thị trấn thuộc thành phố Boston. Ở đây, ‘’ triều đả không thành tịch mịch hồi (nước vỗ chân thành trống chỉ vẳng lại cái tịch mịch của hư không)…. ”. Không gian lãng đãng chất Đường thi ập đến, vây bọc, khi chút sương đêm la đà bay chập chờn trên mặt nước. Đâu rồi Lý Bạch và ánh trăng khiến những kẻ tha hương cúi đầu nhớ quê xưa khi nhìn trăng sáng? Đâu rồi mùi hoa thiên lý và nỗi quạnh hiu làm bạn với những kẻ làm thơ? Nghe, rồi xót xa. Bắt chước Ba Tiêu, viết tặng bạn dăm chữ nhặt trên dọc đường phiêu lãng:
Sóng ven bờ lao chao
Đêm không bóng đèn chài
Bên kia long lanh sáng
ánh đèn điện giải dài
Nỗi nhớ chợt ập lại
Ai ? nào biết nhớ ai
Đành ngậm câu thơ cổ
Nuốt theo nỗi u hoài.
CP cười hà hà: ‘’ Tập cổ hả?’’. Dạ chính thế, tôi là một người man di hiện đại, cái tít của đạo diễn Trần văn Thủy quay phim tài liệu về cuộc đời nhà văn hóa Nguyễn Văn Vĩnh. Nhưng xin đừng lầm tưởng tôi bé mọn dám sánh mình với ông ta.
|
Đêm đến trên vịnh Hingham; bờ bên kia là thị xã Quincy. |
Ngày 2, sáng tinh mơ tôi một mình dạo quanh Đất Mũi. Trời xanh trong vắt, đây đó điểm những cặp cánh hải âu cao vút lượn lờ trong nắng vàng. Trên sóng nước, buồm trôi tựa những cánh bướm bay trong gió sớm. Đất Mũi nhỏ và hiền hòa khiến lòng người chùng xuống một cõi an lạc lạ thường. Tôi hello những người ‘’ lối xóm’’ chạy bộ, chúc have a nice day, cười tự nhiên, lòng rộng như trời bao la trải tới cuối biển tít tắp tầm mắt.
K tới. Vẫn ria Saddam, cái cười tở mở, đầu chưa đến cấp Lênin nhưng chắc cũng bắt đầu thưa tóc. Chàng mang theo đồ nghề, nào là chì, than, pastel, và bìa vẽ. Và giọng hát trời cho. Ở bất cứ nơi nào, từ Sài Gòn cho đến quận Cam, Boston... cứ có chàng là tưng bừng nhộn nhịp.
Chúng tôi ăn trưa ngoài vườn nhà CP. Chàng rao, cả đảo Tiểu Bồng Lai chỉ nhà này mới có cái deck trồng cây xanh, hoa cỏ, và dăm thứ rau thơm này nọ rất ‘’kinh tế gia đình’’. Nhìn xa, tầm mắt thoáng. Hít thở, không khí sạch, lại có chút mùi thơm thảo mộc. Và bạn, ôi những kẻ đáng yêu nhất trần gian. Ngồi vẽ. Họa sĩ là thế. Vẽ nhau, chứ biết vẽ gì đây. VDT và NTK vẽ những người không là họa sĩ. Người mẫu tóc hoa râm ngồi chán, cũng đòi chì, than và giấy vẽ lại những người vẽ mình. Điếc, tôi nào sợ súng. Tôi tỉnh bơ vẽ NTK, VDT…Nàng nhìn rồi reo, cứ như Chagall. Mơ màng, không lẽ thành danh hoạ quốc tế lại dễ đến thế. Tỉnh, tôi đoán nàng ‘’ tử tế’’, đang khuyến khích một cái mầm già liều lĩnh thí mạng cùi. CP cũng đòi giấy bút, vẽ tôi. Ha ha, nhìn, tôi thấy mình mang hình dạng một chú Joker trong những cỗ bài Tây đánh xì phé. VDT lại reo, còn đây là Matisse. Bây giờ, có cả Chagall lẫn Matisse, tôi chắc chắn là nàng đùa bỡn rất chi là có ý thức. Vẽ, tán, nhìn, tôi bị mái tóc VDT hút như hấp tinh đại pháp trong truyện chưởng Kim Dung. Ô hô, phải chăng lại phải lòng vặt, thứ bệnh tôi nhiễm từ ngày còn tắm truồng dưới mưa trong những con hẻm thời tôi còn ở cổng xe lửa số 2 trên con đường có tên là Bùi Thị Xuân xa xưa.
|
Họa sĩ Văn Dương Thành và Nam Dao vẽ thi sĩ người mẫu. |
Tôi kể dăm năm trước tôi có đến vái cụ Nguyễn Du ở Tiên Điền, gặp cô Vần, cháu 8 đời của cụ. Tóc mượt mà dài đến gót chân, làm hướng dẫn cho khu di tích vinh danh nhà thơ dân tộc, cô hỏi tinh quái, anh có con cháu gì với cụ mà rót rượu mời và thắp hương van vái. Đến xin ở rể, tôi đáp, cười tình. Kèm phải lòng vặt là bệnh đĩ mồm, dĩ nhiên. Và khi đến Vinh, tôi điện thoại ‘’ mời’’ cô Vần đi …giang hồ. Nhưng hẳn ai cũng đoán được, cô từ chối. Tôi mang chuyện thất tình kể cho bạn văn, ai cũng cười tôi ’’thơ dại’’ trên xứ sở này ăm ắp tiến bộ. Nhưng thật bất ngờ, mấy năm sau tôi lại phiêu bồng ở Hà Nội thì được một số bạn mời đi nhậu. Đến nơi, lát sau cô Vần củng tới. Các bạn văn ơi, quí hóa thế đấy. Cô Vần kể, nay em về Hà Nội đi học, hai cháu để ở quê nhờ bà ngoại chăm. Ô, thế là nàng đã hai con. Tôi uống, say mèm, chẳng còn biết trời trăng chi. Giọt sầu có chất cồn đốt cháy hồn tôi, bốc lửa cháy rực một trời hoang dã.
Thôi, chào mi những cơn lòng hỏa hoạn.
K ra đứng lề đường, dùng pastel vẽ ngôi nhà CP. Tôi xuống, đứng bên. Tôi nói, này, thiếu những ống máng màu trăng kia kìa. Họa sĩ lườm tôi, bảo ‘’ Vẽ chứ có chụp ảnh đâu mà thiếu với thừa. Thiếu mới đẹp!’’. Ừ nhỉ, tôi nhủ lòng, thăng hoa hiện thực mắt thấy tai nghe mới là nghệ thuật chứ.
Nguyễn Trọng Khôi ký họa bằng phấn màu.
Chúng tôi lại ngồi. Nói về hội họa. Và mang sách tranh Magritte ra xem. Ông ta vẽ cái tẩu thuốc, viết ở dưới Cái này không phải tẩu thuốc ( ceci n’est pas une pipe). Đúng thế. Cái tẩu thật bằng gỗ, 3 D. Bức tranh 2D, chỉ gợi một thứ ý thức về cái tẩu. Nhưng vui hơn là khi Magritte vẽ về phép biện chứng. Magritte vẽ một cái ô, trên ô là một ly nước đầy. Nước không đổ, vậy đề mới chẳng phản đề, cái ô tồn tại để... làm gì nhỉ? Magritte tinh quái đặt tên cho bức tranh là Để Hegel đi nghĩ hè.
Nói đến biện chứng pháp lại nhớ Phan Huy Đường. Lão gia ăn mày này ở Paris, hứa nhưng không vượt Đại Tây Dương đến Boston được. Còn nhà thơ ND, tối nay mới từ Florida quay lại Boston. NTK ra về khi trời chập choạng, và thế là vắng mất tiếng cười tở mở sau hàm ria Saddam.
|
Nguyễn Trọng Khôi vẽ chân dung Nam Dao. |
Đêm thứ 2, hai lão ông tiếp tục trò chuyện, để lão bà yên nghỉ sau một ngày vẽ vời với Chagall và Matisse. Lại ánh đèn bờ Quincy nhấp nháng. Gió rì rào đệm tiếng nước vỗ bờ buổi chớm thu.
Lại bắt chước Ba Tiêu:
Lá rì ràoSóng xôn xaoVết chân nào lối cũCánh nhạn tít tắp caoMỹ nhân tăm cáTìm? tìm nơi nao?
Cửa hồn tôi bỏ ngỏđể gió thốc vào
Sáng ngày 3, Nguyễn Trọng Khôi lái xe đưa Nguyễn Duy tới. Chàng nhà thơ này mới bị căng mạch vành tim cách đây đâu 3,4 tháng. Nhìn khoẻ mạnh hơn khi gặp ở SG kỳ về nước đầu 2013, tôi mừng. Đầu bạc, còn gặp là vui rồi. D bảo, sau chuyến phiêu bồng này chắc chẳng còn đi được nữa. Nhớ những chuyến ‘’lên bờ xuống ruộng’’ với D trong khoảng gần 30 năm nay, tôi bất giác mủi lòng, ngậm ngùi tiếc những chuyến dự định đi nhưng chưa lên đường lăn lóc với bạn. Cha mẹ ơi, chống lại được cái kim đồng hồ sao mà khó. Mình đến lúc hết pin, nó thì cứ quay quay hết vòng nọ đến vòng kia, nhìn đến chóng mặt.
Ăn trưa. CP mở những chai rượu ngon, rượu trắng trước như khai vị, rồi sau là rượu đỏ. Sành uống, chàng cho lũ chúng tôi ké, và rượu vào ừng ực lời ra ào ào. Sau nói là đến vẽ chân dung ND. Lần này, cả Chagall lẫn Matisse đều biết thân biết phận, không ngó ngoáy gì cả. Thật đỡ tốn giấy, tốn than, tốn chì. Bàn cãi lảm nhảm một lát, cả bọn lên đường thăm Plymouth, nơi CP nhận lời làm tour-guide. Vị hướng dẫn du lịch này rất ‘’văn hoá’’, bắt ngừng nơi có nhà xay lúa của Mordecai Lincoln, cụ tổ 5 đời tổng thống Abraham Lincoln, người đã kết thúc cuộc nội chiến Nam Bắc của nước Mỹ. Chỉ dăm ba năm sau cuộc chiến, người Nam kẻ Bắc cái đất nước này hòa hợp hòa giải với nhau. Còn trên đất nước Việt Nam anh hùng của ta thì sao? Chưa kịp hỏi nhưng tôi đã kịp nín lời để mọi người khỏi phải nhăn mặt. Cho một ngày vui, ta không cần đặt ra cho nhau những ‘’vấn nạn’’ loại biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Nhà xay lúa của Mordecai Lincoln, tổ 5 đời Tổng Thống Lincoln. (Ảnh lưu niệm có Nam Dao, Văn Dương Thành, Chân Phương, Nguyễn Duy)
|
Chúng tôi đến chiêm ngưỡng tàu Mayflower, mô hình phỏng theo chiếc tàu đầu tiên cặp biển vùng này cách khoảng bốn thế kỷ. Tàu đáp vào một ghềnh đá được lưu giữ như một chứng tích đầu cho cuộc chinh phục Bắc Mỹ của người Âu châu, được khách du lịch bấm máy lách tách chụp hình, bi bô chuyện bằng tiếng Trung Quốc, chẳng biết họ nói gì. Theo tuyên truyền của chính quyền Bắc Kinh, xưa họ mới là những người khám phá ra châu Mỹ đấy. Nay, nhằm trở thành một cường quốc biển, hẳn họ chẳng ngại ngần gì khắc chữ lên đá rồi giải đầy từ đảo Điếu Ngư trên Biển Đông cho đến eo biển Malacca, phong toả một con đường giao thông hàng hải với chiêu bài sẵn sàng hợp tác để cùng khai thác lòng đại dương có dầu lửa, khí đốt. Biết rồi, khổ lắm…thôi đừng nói nữa!
Thương thuyền Mayflower (mô hình phục chế theo nguyên mẫu). |
Hòn đá Plymouth Rock, nơi di dân chèo ghe nhỏ cặp vào bờ. |
Du khách đứng ngắm Plymouth Rock. Nguyễn Duy chụp ảnh tảng đá. |
Sau khi di dân Pilgrims đáp tầu vào Plymouth, mười năm sau họ đi đến Boston. Thành phố có từ thời đó, và đầu thế kỷ 20, cảng Boston lớn hơn cả cảng New York, nơi trung chuyển hàng hóa giữa Mỹ và châu Âu. Chàng dẫn chúng tôi lên đỉnh đồi nhìn ra biển, nơi có bức tượng của một thổ dân da đỏ, kẻ từng là thủ lãnh chống lại di dân người Âu đến xâm lấn. Hiện nay, hàng năm thổ dân đổ về nơi đây để tưởng niệm. Tưởng niệm gì đây? Có những nền văn minh buộc lụi tàn khi ma xát với những nền văn minh khác. Tôi liên tưởng đến người da đỏ cưỡi ngựa bắn tên đụng độ với những đội quân có súng ống trong những phim cao-bồi. Họ chạy vòng vòng và rụng lả tả. Hàng thôi, nhưng sau thì sao? Chỉ còn cái tượng dựng trên đỉnh đồi, nhìn ra biển, và hẳn ngậm ngùi về một quá khứ không mấy xa xăm.
Tượng tù trưởng thổ dân Massasoit. |
Trên đường về, xe ngừng ở một công viên trong có bức tượng đá tiền thân của tượng nữ thần Tự Do ở New York - theo lời CP. Tại sao thần Tự Do lại là nữ nhỉ? Chắc các liền chị rộng lượng hơn liền anh, những kẻ lâu lâu ngứa lên lại đi làm anh hùng liệt sĩ đem tự do đổi lấy chiến thắng trong những trận binh đao chăng?
Tượng đài Nhớ Công Đức Các Tiền Nhân ở Plymouth. |
Chúng tôi tạt vào một nơi bán đồ biển mua cá; bữa chiều được ND và VDT chăm chút. Sắp đến giờ phải chia tay, ND đáp ân tình bằng bài thơ Nhìn từ xa…Tổ Quốc. Chàng đứng dậy, đọc:
…Xứ sở thật thà
sao lắm thứ điếm
điếm biệt thự - điếm chợ - điếm vườn
Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai?
Không ai
Vết bầm đen vò tai…
Những người bạn lên đường lúc tối trời. Hoạ sĩ VDT bỏ lại đàng sau hình ảnh mớ tóc đen huyền dài quá đầu gối. Mai nàng quay lại New York, và sau sẽ qui cố hương. Ôi cái cảnh biệt ly sao mà nao lòng! Thôi nhé, lòng nhủ lòng, đừng phải lòng vặt nữa nghe cha!
Ngày 4. CP mệt, dậy muộn. Tôi mò sách của chàng. Nhà chất sách mọi nơi, kể cả lối cầu thang lên tầng trên.
Thế là có một buổi sáng thảnh
thơi, đọc Simon Leys, tiểu luận trong The
Hall ofUselessness ( Vô Dụng Đường) và The
Burning Forest ( Rừng cháy). Leys chuyên về văn hóa
phương đông, đặc biệt Trung Quốc. Nói thật,
ông Tây (người Bỉ thì phải) này hiểu Tầu chẳng
kém gì Ta (xưa có cố GS Trần Đình Hượu,
nay có Trần Quốc Vượng ở Hà Nội). Thậm
chí có những điều ông Leys này sâu sát đến
độ khá kinh ngạc. Lòng lại nhủ lòng, mình dốt
quá, phải học thôi, nhất là lúc này ông hàng xóm
phương Bắc chắc sẽ ruổi người
đi xuống phương Nam, đẩy thuyền bè ra biển
Đông, áp dụng chính sách ‘’ mềm’’ đàng sau có lực cứng
như thép bọc thiết giáp và chiến hạm. A, cái
địa chính trị rắc rối từ muôn đời
của cái nước ta đa sự, thật nhức đầu.
Chợt nhớ lời cô em ‘’ trách’’: ‘’ Quê hương như chùm khế ngọt. Huynh cứ như đứa trẻ ấm ức vì không được ăn khế, kêu oai oải! Bao giờ viết lách được cái chi thơm thơm, mát mát, ngon ngon...thì muội sẽ vỗ tay cho!’’. Quê hương ơi, cắn vào chua lè, kẻ thất phu này lại bất lực, giời ạ! Làm sao mà cảm được cái mát mát, cái ngòn ngọt, cái thơm thơm đây hả cô em!
Trưa, rủ CP ra bãi biển, ngắm trời đất bất chợt khi nắng lúc mưa. Rồi ăn chiều ở quán Barefoot 's Bob, đón gió trở mùa và ngắm biển buổi đầu thu. Tối, thấy cô đơn lạ. Nhưng lại thanh thản, lòng chỉ gợn một chút luyến thương vu vơ, không ai, không gì...Bãi biển trưa nay lại hiện ra, mơ hồ, hư thực...
Bờ xa nước rút
Ghềnh đá trơ lòng
Người đi xa hút
Trời xa mênh mông
Xoa tay bật hát
Dăm lời viển vông
Viển vông thật, nhưng cứ gửi cho gió cuốn đi, ai nhận được thì nhận.
Bất cứ ai, xá gì!
|
Từ các quán nhậu nhìn ra bãi vắng Nantasket Beach. |
Ngày 5, chiều NTK mở tiệc. Trưa, CP chở tôi đến nhà Nguyển Bá Chung (NBC), nơi ND tạm cư. Gặp lại phu nhân là chị Chấn (C), người đàn bà phúc hậu nhất... những nơi có cộng đồng người Việt. Gặp lại ông NBC, cũng tử tế nhất...với những nhà văn, nhà báo Việt Nam sang Mỹ thăm thú (viết ‘’thú’’ thì xin chớ hiểu lầm Mỹ là xứ sở của những loài thú dưới cấp người biết uống coca, xem baseball và ăn chip ). NBC nghe đâu đau, nhưng nay nhìn rất khoẻ, và vẫn say mê chăm chú nhìn màn ảnh Internet. Chị C chẳng thay đổi một tẹo nào, so với NBC thì ngày một trẻ ra ( hè hè, NBC tóc nay bạc phơ chớ có giận, chàng là người biết chị C có nhuộm tóc bằng thuốc hiện đại hay không!). ND vắng mặt, đang giúp 2 đứa con dọn nhà. Chàng này quả số vất vả, đi ½ vòng trái đất, muốn nhưng gần què, đâu khuân vác gì được. Thôi, có mặt vì ngoài tình phụ tử còn có sự đoàn kết của vô sản quốc tế. Cố nhé, đoàn kết lại nghe không!
Chiều D về. Chúng tôi trực chỉ nhà NTK, được báo trước là sẽ có Trần Doãn Nho (TDN) và Trần Thu Miên (TTM), một giáo sư ở Boston College. Rất vui, chuyện nháo nhào, nào là tính ẩn dụ trong văn học với TDN, nào là ...quên mất rồi, với những ai ai mà không nhớ vì uống nào trắng, nào đỏ...và nhậu ễnh bụng món gỏi cá kiếm ( sword- fish) tuyệt vời của chị Mai , phu nhân ông bạn cung thê cực tốt là NTK. Chị Mai cũng như chị Chấn, trẻ mãi không già, cứ như thách thức thiên nhiên. Chị cứ ‘’xanh’’ mãi thế thì đám liền anh đầu bạc chúng tôi chắc sẽ thở hắt ra mất!
Khôi hát, dùng clavier, có phối âm, rất điệu nghệ. Và CP cũng cất tiếng hát, bài của chính chàng soạn nhạc phổ thơ. Ối giời, cảm phục, thậm chí kinh ngạc rồi tới kinh hãi. Kinh ngạc vì thơ hay nhạc nhuyễn, kinh hãi là cái giọng chàng lên cao xuống thấp, đâu đó dăm ba lần bước hụt, chỉ sợ chàng té lộn mèo thì mất zzzui thôi. Không, chàng không té lần nào, dẫu rượu có vào và lời ra theo một chu trình âm tiết được nghiên cứu đàng hoàng. Đến lượt mình, tôi chẳng biết làm chi thì NTK lôi ra tập lưu niệm trong đó tôi có làm một bài thơ cách đây hơn mười năm. Tôi đọc. Thơ tôi trước sau vẫn cứ thế, cô em Tha La xóm đạo ơi, vẫn cứ đầy chất chua axít, không thơm ngon mát tam tinh bổ cẩu...Hélas!
Chàng ND lại đáp ân tình chủ nhà và khách tham dự bằng cách đọc Nhìn từ xa ...Tổ Quốc. Bạn thứ lỗi, cho tôi nhại và nói theo:
Ai?
Không ai!
Vết bầm hốc hoác không còn chút máu tươi
màu đỏ chỉ còn là màu ngọn cờ không gió
Thế mà có kẻ bảo nó đang bay
Vâng
nó đang bay xuống vực cuộn theo thứ lịch sử kích thước vừa bằng miệng giếng
Ếch ộp...bốn phía thì thào
Chao ôi, hiền muội xóm đạo Tha La, huynh đây lại ăn khế chua mất rồi. Chua đến độ lè lưỡi thất thanh kêu Stop.
Chao ôi, nói kiểu nàng Francoise Sagan thời hiện sinh bên Pháp hơn 40 năm qua, những ngày zzui qua mau. Bắt chước, và cực đoan hơn, những giờ ( =1/24 ngày) vui qua còn mau hơn. Khuya rồi, phải về. Và cố lên anh em ta ơi, theo đúng lời ông nhà văn lừng danh Phan Khôi, mai mà ‘’nắng được thì cứ nắng’’ nhé.
Không, hôm sau, ngày 6, trời mưa và lành lạnh. NBC, ND và tôi kéo nhau đi ăn phở Lê ở Harvard Square, sau sẽ đến hẹn lại lên với NTK, CP ở hầm rượu ngay dưới. Đợi một lát, ND lại đi giúp con dọn đồ. K và CP lục đục tới, chuyện vãn trong một chiều mưa chẳng mấy chi hào hứng. Tối, tôi về nhà NBC, để có thêm một chút thời gian với ND. Chị C lôi ra một tập lưu niệm, bảo viết vài chữ làm kỷ niệm.
Tôi ngẫm mình , hạ bút hai câu:
Thoắt trông, tóc đã bạc rồi
Nhìn ra, một thoáng mây trời trôi xa...
Quả không vui. Nhưng tại sao tôi không la làng: ‘’ Nắng không được thì hát lên đánh thức mặt trời dậy !’’ hở tôi ơi?
Hôm sau, NBC đi vào U Mass sớm. ND và tôi ra Harvard Square gặp CP, rồi cả ba đi ăn trưa ở Dorchester, vùng đông người Việt cư trú. ND phải có mặt ở U Mas, chúng tôi ăn vội vàng để kịp giờ hẹn của chàng. Lập cập thế nào CP đâm xe vào lề đường, trong khi qua khung kính tôi nhìn ND khập khiễng bước vào chiếc cầu thang điện chạy lên tầng trên đại học. Xe đâm lề như thế nên tôi chưa kịp buồn, động tác tự động là xuống xem lốp có bị sịt không. Thế cũng may! Khỏi bâng khuâng một thoáng.
Chúng tôi về Tiểu Bồng Lai đảo.
Mệt nhoài, tôi chưa ăn chiều đã ngủ thiếp đi.
|
Đảo Spinnaker Island trong vịnh Hingham. |
Ngày 7, ngày cuối. Sáng tinh mơ, NTK gọi điện bảo TTM nhắn mời chúng tôi vào Boston ăn trưa, nhưng nào còn đâu thời gian! Đành từ chối. Hôm nay, tôi cũng muốn có những phút trầm lặng chuyện trò với CP. Về đủ thứ chuyện, nhưng rút cục, vẫn xoay quanh vấn đề văn hóa thời đại này. CP khơi mở ý của một nền dân chủ mới, Cyber-Democratie - chữ của Pierre Lévy hiện giảng dậy ở Đại Học UQ-TR gần nơi tôi cư ngụ. Và những nghịch lý, tỉ dụ như cuốn sách của Giovanni Arrighi, tựa là Adam Smith in Beijing ( Ed. Verso, 2007).
A. Smith
là ông tổ nền kinh tế học tư bản bây giờ
tư tưởng thống lĩnh kinh tế Trung Quốc,
nơi mang danh xưng XHCN ‘’ kiểu Tầu’’. Nhưng tội
cho A. Smith, ông nào đâu biện hộ cho một nền
kinh tế tế tư bản hoang dại! Trong phần
đầu cuốn sách, chương Một là tiểu luận
tên " Marx in Detroit , Smith in Beijing’’. Chẳng cần
nhắc Marx là ai nhưng Detroit, mới cách đây không lâu còn
là thành phố chuyên chế tạo xe hơi của đại
tư bản Mỹ nay đang ‘’ phá sản toàn bộ’’ và từng
bước thành một thành phố hoang. Với lao động
rẻ khắp nơi trong thế giới kinh tế
‘’đang lên’’ ( emergent economies), công nhân Mỹ lưong cao bị
cho ‘’ ra rìa’’ cuộc sống, và chưa bao giờ khẩu
hiệu vô sản thế giới hãy đoàn kết với
nhau lại mang ý nghĩa thực tiễn đến vậy.
Nhưng dẫu có đoàn kết thì làm gì? Vô
phương chăng?
Đến chiều, CP đưa tôi vào Boston qua đường biển, bằng những chuyến ferry tổ chức rất tốt. Từ bến Boston, mai tôi có thể lấy Water –Taxi ra phi trường Logan để bay về Canada.
|
Bến phà Long Wharf nơi các chuyến ferry sáng chiều vào ra Boston. |
Bến cảng Boston nay sang sửa khá đẹp, Hotel và Condo hạng sang mọc lên như nấm, vòng quanh là một công viên dài 2 cây số mang tên Rose Kennedy, thân mẫu của cố Tổng Thống J. Kennedy. Chúng tôi cuốc bộ vào phố Tầu, đi ngang Parker Hotel, nơi ngày xưa ông Hồ Chí Minh từng kiếm ăn như bếp phụ trước khi làm chính trị chuyên nghiệp, tức là có môn bài của Đệ Tam Quốc Tế CS. Nghề làm bếp phụ như vậy cũng mở ra nhiều khả năng đấy chứ! Tôi thông báo cho CP, ở Việt Nam XHCN nay có đạo thờ Bác Hồ, trụ sở lên cả VTV chính xác là Điện Hoàng Thiên Long, Từ Liêm, Hà Nội. Nghe đâu Viện Khổng Tử cũng sẽ khai trương một ngày rất gần đây để thúc đẩy chính sách bốn tốt trên một bàn cờ mà bên phía ta đã mất hết xe pháo mã với một con tướng cụt đầu.
Thôi, đi ăn, tôi kêu đói. Thế là chúng tôi vào tiệm Hong Kong tôi đã từng ăn hơn 10 năm về trước, gọi mằn thắn, sủi cảo, vịt quay... Ăn cơm Tàu hợp khẩu vị như thế, đừng tưởng là độc lập dễ dàng nhé!
|
Cổng chính vào Phố Tầu Boston với bốn chữ THIÊN HẠ VI CÔNG của Tôn Dân. |
Cái gì có bắt đầu thì rồi cũng có lúc kết thúc. Nhất là chuyện rong chơi. Sáng sớm ngày cuối, CP chở tôi ra ferry. Chàng chụp cho tôi bức ảnh chia tay. Ôi, theo sách quốc văn giáo khoa thư, cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy. Trời lại mưa sụt sùi. Và bến phà, gió thốc lạnh buốt.
|
Nam Dao lên phà ở bến Pemberton; rời đảo nhỏ vào Boston và phi trường Logan. |
Chưa đi, tôi đã nhớ những người bạn tôi trên đất Boston này. Cám ơn các bạn đã cho tôi những ngày tuyệt vời.
Các bạn ạ, trời chưa nắng thì chúng ta hát lên đánh thức cho mặt trời thức giấc.
Nam Dao
20/10/2013