Mùa xuân, hai kẻ ṇi t́nh
...là Trịnh Công Sơn và Khánh Ly (TCS-KL). Tên họ, không cần nhắc. Bóng dáng họ, lẩn quất, vẫn đâu đây. Và trong tôi, hai lần hội ngộ.
*
Lần thứ nhất, ở Paris, năm 89 kỉ vừa qua. Chàng lần đầu viếng Kinh kỳ Ánh sáng, xuống máy bay về đến quán Monge th́ đă say mèm để thoải mái ‘’giao lưu’’. Người thân trong gia đ́nh Sơn lục tục từ Canada kéo qua. Những kẻ ngưỡng mộ bao vây. Sơn ở trên gác quán Monge, và không khí có cái sự sợ, sợ bị phá, thậm chí sợ Sơn bị ‘’ bắt cóc’’ trong cái t́nh huống găng go bên này-bên kia. Sơn tiếp tục uống. Rượu Tây, ngay trong một phim thriller, vẫn ngon hơn Lúa Mới, vodka nội. Hơn Ararat, rượu mạnh xă hội chủ nghĩa, uống quá chén là nhức đầu. Nhưng vẫn phải uống, má ơi! Bạn nào biên tập xin giữ hai tiếng má ơi và dấu than ! giùm tôi, tôi không say đâu!
Sơn hát ở Nhà Việt Nam, có Thanh Hải từ Đức qua góp tiếng. Vào hậu trường, thấy Sơn lại say rồi. Môi mím, mắt nhắm, chàng liêu xiêu, chân không chạm đất. Nhưng chàng vẫn hát. Và nói. Người vỗ tay, rầm rầm. Bớt, rồi hết sợ, chàng bắt đầu mỉm cười. Người em rể Sơn th́ thào, tiếc quá, Khánh Ly chưa qua kịp. Sơn cất tiếng, như gọi: ‘’ em c̣n nhớ,hay em đă quên...Nhớ Sài G̣n, mưa rồi lại nắng’’. Lại vỗ tay, rào rào. Quá khứ nào chẳng có những nét đẹp ẩn những nhớ quên lăng đăng. Và cuộc gọi hồn nào cũng có những phút thần linh chao nghiêng cho ḷng người bước vào một cơi đi về thăm thẳm.
Khánh Ly qua Paris thật. Tối hôm đó, tôi ở nhà Bạch công tử, người tổ chức chuyến đi của Sơn. Đang ăn, có điện thoại. Chủ nhà vội ra đi, chừng như hớt hải. Những người trách nhiệm nay lại lo ‘’bảo vệ’’. Cặp đôi TCS-KL hẳn nhắc nhở thời nhạc phản chiến ở Sài G̣n giữa thập niên 60. Và gợi lại thứ trí nhớ chai ĺ cảm tính của loại ngôn từ chỉ trỏ ‘’ những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ’’ mà tôi cũng từng có hân hạnh là nạn nhân. Nghe đâu bên kia sẽ biểu t́nh chống TSC-KL, bên này sửa soạn chống biểu t́nh, vận động những vơ sinh một dojo Vovinam dàn chào khi cần. Đó là hậu chiến của một cuộc tương tàn không chịu chấm dứt. Bên này, ta. Bên kia, ngụy ( tiếng của nhà cầm quyền thời đó, và cho cả đến bây giờ). Má ơi, tiền đồn của tiếng gào âm u tiền kiếp. Đỉnh cao của trí tuệ mù ḷa loài không đứng lên được làm người. Chao ôi!
Trong không khí căng như một sợi dây đàn chỉ chực đứt, Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly ở Paris là một thứ cơ mật. Tôi vốn không tọc mạch, không t́m, không hỏi. Và thế là không gặp Khánh Ly. Nhưng chính thế mà tôi lại hội ngộ với nàng ( gọi Sơn là chàng, nên bất tất gọi Khánh Ly là nàng với ḷng trọng thị). Khi nàng về Mỹ ( về, về đất lạ, nghe mà đau xót) th́ băo chừng lặng, và chỉ c̣n vài cơn gió xôn xao. Chàng bảo tôi ‘’ toa dẫn moa đi phố’’. Chúng tôi lẳng lặng đi, bắt Metro đến Boulevard St – Michel, bước dọc sông Seine ghé mắt vào những cuốn sách cũ bày trong những kiosque ven đường, nơi bác Nguyễn (Tuân) từng ao ước dừng chân lần bác được Nhà Việt Nam mời nhưng (h́nh như) bác không được Nhà Nước cho phép giang hồ. Tôi hỏi, Khánh Ly đi rồi, có nhớ không? Sơn ngập ngừng ‘’ nhớ chứ, nhớ cả một thời đáng lẽ phải quên!’’, và lại mím miệng như mỗi lần phải nói những điều ấp ủ.
A, cái thời phải quên là thời nào. Có phải thời Khánh Ly là nàng Mai hát ở một pḥng trà trên Đà Lạt trong đêm mưa cao nguyên buồn lắng? Không đâu, có lẽ nào. Chắc chắn là thời nàng xuống núi, vào Sài G̣n những năm 66-67, đi chân đất hát cùng với chàng trong khuôn viên Đại Học Văn Khoa, trên bục quán Văn xác xơ ghế bàn nhưng thấm đậm t́nh người. Và hát những ca khúc phản chiến. Sơn cho ra đời Ca khúc Trịnh Công Sơn năm 1966, và rồi Ca khúc da vàng (đầu 1967), Kinh Việt Nam ( 1968). Trong những cuộc xuống đường của thanh niên, sinh viên và học sinh đ̣i ḥa b́nh, độc lập...anh đă xuất bản Ta phải thấy mặt trời năm 1970. Và khi Việt Nam hóa chiến tranh, độ tàn phá ngày một khốc liệt th́ anh in tiếp Phụ khúc da vàng năm 1972. Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn có 5 tập, và là một số lượng nhỏ so với nhạc t́nh Trịnh Công Sơn khi đó đă có những tác phẩm đi vào ḷng nhân gian như Ướt mi, Biển nhớ, Nh́n những mùa thu đi, Thương một người, Diễm xưa, Như cánh vạc bay... Trịnh Công Sơn đă thành danh trước khi nhạc phản chiến được phổ biến. Và phổ biến rộng. Qua những bản chuyền tay, băng cassette, trên sân trường, trong những quán cà phê, xa tít tắp ở chiến trường, và trong rừng núi hoang vu phía ‘’ta’’ như nhà thơ Nguyễn Duy kể lại đă nghe khi ‘’ta’’ ém quân chờ thời cơ ‘’giải phóng’’.
TCS-KL hát ǵ? Xin trích dăm ca từ trong Ca khúc da vàng.
Từ hiện thực trần trụi:
Ghế đá công viên
Dời ra đường phố
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lơa lồ khóc tuổi thơ đi...
đến những giọt nước mắt:
...Giọt nước mắt thương con, con ngủ mẹ mừng
Giọt nước mắt thương sông ấp ủ rêu rong
Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm
Giọt nước mắt thương dân, dân ḿnh phải long đong
qua giai điệu uất nghẹn cho cuộc trần ai:
... Ôi chinh chiến đă mang đi bạn bè
ngựa hồng đă mỏi vó chết trên đồi quê hương
c̣n có ai
không c̣n người...
và rồi, chết th́ :
...xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng
trên nóc nhà thành phố, trên nhữngđường quanh co
xác người nằm chơ vơ, dưới mái hiên chùa
trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu...
Nhưng ám ảnh là những câu hát siêu thực, h́nh thể văn chương vứt vào ao tù thứ ngôn ngữ duy lư, thét gào tâm cảnh phi lư, thậm chí bệnh hoạn, của một thời b́nh thường-là-bất-khả:
...mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
chị vỗ tay hoan hô ḥa b́nh
người vỗ tay cho thêm thù hận
người vỗ tay xa dần ăn năn
Hát những ca từ trên, hát thế nào? Thanh Thúy? Chị hát Thương một người, tuyệt vời. Hay Lệ Thu? Ướt Mi, chắc bất hủ...
C̣n Ca khúc da vàng, âm sắc thế nào cho ḥa nhịp với chất trong ca từ. Phải hát như con trẻ vừa lớn, c̣n hồn nhiên, nhưng nay đối mặt với một thực tại bi thương. Phải hát giọng những âm hồn chưa muốn rời dương thế, hát để chống lại tai ương chết chóc. Phải hát, như cầu kinh, những bài kinh gầy lửa hy vọng và đánh thức sức tồn sinh để đối mặt vào sự hủy hoại đầy nghịch lư nhưng không khoan nhượng của con người với con người. Những con người cùng một mầu da. Da vàng.
Khánh Ly đă hát như thế, giọng đến từ một thế giới bên cạnh cơi chết, nơi thần linh cũng như yêu ma c̣n đó, một bên nhắc nhở rồi ta phải thấy mặt trời, bên kia tung hô ca ngợi hận thù của những màn đêm u mê.
Khánh Ly đă hát như thế, bởi nàng cảm được nghệ thuật của họ Trịnh. Cảm được nỗi ḷng họ Trịnh.
Khánh Ly hát được như thế v́ nàng đồng thời tiếp cận sâu sắc cái thảm thương của một thế sự thăng trầm qua xương máu của hàng trăm ngàn sinh linh bơ vơ trên một chặng đường vô định.
Khánh Ly hát để cùng Trịnh Công Sơn đối kháng hiện thực bằng cách dựng lời kêu than cho thời đại:
... người nằm co như loài thú khi mùa Đông về
người nằm yên, không kêu than buốt xương da ḿnh
từng tiếng người, nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm...
người c̣n đó nhưng lời nói rơi về chân đồi
người ngồi đó nhưng trong tim máu tuôn ra ngoài
nhuộm đất này nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay...
Khánh Ly hát như thế, và nàng đánh một dấu ấn vào cái chặng đường khốn khổ của lịch sử mà Trịnh Công Sơn mím miệng thốt là một thời đáng lẽ phải quên. Nàng , kẻ ṇi t́nh, hiểu và đi chân đất trong những quảng trường cất tiếng hát liêu trai. Đuổi u mê. Bắt nắng muộn. Với trực giác một ngày mai, và với bản năng đàn bà ươm sự sống, nàng đă gặp một kẻ cũng ṇi t́nh, trắng tay trắng ḷng, mang thơ vào mong dỗ yên những tai ương máu lửa. Cơ duyên cho hai kẻ ṇi t́nh gặp nhau không to hơn một hạt bụi trong ngân hà. Nhưng hạt bụi đă có. Và một khi chiến tranh c̣n trên trái đất quá quắt này, tiếng hát cho ḥa b́nh và cho phận người nhỏ nhoi cần cưu mang vẫn cứ vang vọng thiết tha. Phải chăng đó là phép lạ? Và là nguyên nhân khiến hai cái tên TCS-KL kết thành một chuỗi liên từ không tách ra được.
*
Tôi đă nói về lần đầu không gặp Khánh Ly, nhưng lại hội ngộ trong tâm tưởng, bên bờ sông Seine với Sơn, một Khánh Ly tôi chỉ thoáng thấy từ xa ngày ở Paris.
Lần thứ hai, tôi gặp Khánh Ly bằng da bằng thịt, trên gác quán ăn La Famille Vietnamienne ở khu Duluth, thành phố Montréal. Đầu năm 1992, Sơn qua thăm các em một thời gian sau khi mạ Sơn mất. Theo lời kể của Vĩnh Trinh, cô em út chàng trân quí, Sơn bị sốc. H́nh ảnh mạ Sơn đứng ŕnh nơi cửa sổ nh́n ra vườn treo hay nh́n xuống pḥng ăn v́ lo Sơn uống quá nhiều lại hiện ra. Bà xưa dặn ḍ tôi :‘’ con đừng để Sơn quá chén, hại gan lắm!’’. C̣n Sơn, chàng yêu mạ lạ lùng, kể lể ‘’ bài nào mới moa cũng hát lần đầu cho mạ moa nghe, mạ bảo được th́ moa mới phổ biến’’. Ngày chôn mạ, Sơn gào khóc níu quan tài, không cho mang đi. Tôi nghe thuật lại, sợ chàng quị mất. Nhưng khi biết Sơn qua Montréal, tôi yên tâm. Lái xe từ Québec cách Montreal đâu 250 cây số lên thăm bạn ngay, tâm trí lang mang thế nào mà giữa đường xe hết xăng, tôi phải gọi xe cẩu.
Sơn vẫn gầy g̣ nhưng nh́n khí sắc có chiều tươi tỉnh. Chúng tôi có những ngày tương đối yên tĩnh. Không như ở Paris. Không như ở Sài G̣n, người và ruồi tấp nập. Sơn kê giá vẽ. Khi đến với bạn, tôi ngồi một góc, lặng lẽ nh́n. Ôi, quí làm sao những giây phút vô ngôn. Chúng tôi gọi là những phút ngồi đồng. Bấy giờ, ngôn ngữ trở thành vô tướng. Tư tưởng, vô tăm. Chỉ có ǵ như một thứ năng luợng thật nhẹ, mảnh mai, không mà như có. Tác động? Sau, có thể cả một thời gian dài, nó làm người ngồi đồng suôi đến những nơi hư thực trộn vào nhau biến cái ngũ quan nh́n, ngửi, sờ... thấy thành một chuỗi những sáng tạo. Ngôn từ, văn và thơ. Họa, vẽ tranh. C̣n gần được cơi trên, là tạo âm. Nhạc gần với Thượng Đế nhất. Đời tôi, chỉ hai người mang đến cho tôi sự cộng hưởng năng lượng huyền diệu đó. Một là Trịnh Công Sơn. Và hai, là Trần Dần.
Một sáng thứ bẩy, tôi ḷ ḍ leo thẳng lên nơi Sơn ở. Từ trong pḥng, Sơn lênh khênh đi tới, mặt sáng rỡ, nói ‘’ Edith Piaff của moa tới chơi’’ . Cửa pḥng mở, và Khánh Ly bước ra. Mở ngoặc, Edith Piaff là một danh ca người Pháp nổi vào những năm 50-60, người đă lancer những chansonnier tài danh như C. Aznavour, C. Leveillé... Chỉ nh́n Sơn, tôi biết bạn ḿnh đang hạnh phúc. Và nghe Khánh Ly chuyện tṛ với Sơn, tôi hiểu họ là hai người bạn ở cái nghĩa đẹp nhất. Sơn tŕu mến nàng với tấm t́nh một người anh trai. Và Khánh Ly viết ngày Sơn ĺa xa cơi này rằng ‘’ từ ông tôi thành danh và quan trọng hơn cả là tôi được thành nhân.... ông Trịnh Công Sơn là một nửa đời sống của tôi'’, th́, đối với nàng Trịnh Công Sơn c̣n hơn một người anh, và chỉ có thể như một người cha.
Buổi tối, chàng lăng tử Phạm Nhuận mời. Trong một tiệm ăn ở phố Tàu, chúng tôi quây quần, có anh em Hoàng xuân Sơn, Hoàng xuân Giang, cũng bạn Khánh Ly từ thời quán Văn ở Sài G̣n. Khi chỉ c̣n chúng tôi là những thực khách cuối cùng, Khánh Ly và hai anh em Sơn và Giang leo lên cái bục gỗ nơi thường dành cho những cặp mới cưới hỏi. Ôm ghi-ta, họ hát. Như những ngày xưa. Thời của tuổi trẻ hồn nhiên. Thời của một thời chẳng thể quên. Sau này, Hoàng Xuân Sơn kể, Khánh Ly đến chơi với anh em Quán Văn lắm khi ở qua đêm, rất bụi, có ǵ ăn nấy, không điệu bộ kiểu con gái. Khánh Ly từng viết: ‘’... một dĩa cơm chia hai, một điếu thuốc cùng hút, một ly cà phê cùng uống. Chia nhau nằm ngủ trên những tờ báo nhàu nát trải dưới đất. T́nh bạn, t́nh anh em nẩy mầm từ đó. Quán Văn cái tên dễ nhớ và dễ thương...Mỗi người tới tùy tiện t́m chỗ ngồi trên cái nền xi-măng bỏ trống ngổn ngang gạch vụn và cỏ dại. Đó là nơi gặp gỡ đẹp nhất của một thời tôi c̣n trẻ...’’ (Tạp chí Văn Nghệ, số 1 -2000)
Đấy, Khánh Ly như vậy đó. Và tôi hiểu thêm một nguyên nhân khiến TCS-KL là một từ kép gắn bó. Cả hai thật trong và sáng. Họ cùng một chất ṇi t́nh. Nên cơ duyên nhỏ như hạt bụi trong ngân hà đẩy họ vào một trường hấp lực khiến họ keo sơn với nhau chẳng qua cũng chỉ là chuyện xưa như Diễm.
*
Thời gian sau đó Sơn, Khánh Ly và Vĩnh Trinh hát, thu băng nhằm ra một loạt CD. Ở xa, và vốn ít thích nhộn nhịp, nhớ bạn tôi chỉ điện thoại hỏi thăm. Đầu tháng 4, Sơn nói, giọng rầu rầu ‘’ Khánh Ly về rồi, lên chơi với moa đi! ”
Chúng tôi thả bộ dọc Mont Royal. Cuối con đường, băng Park Avenue, đỉnh đồi nhô cao, trên đó cây thánh giá người đời thắp sáng mỗi đêm chọc thẳng vào bầu trời trong xanh buổi tàn đông. Tuyết bắt đầu tan. Dọc lối lên dốc, những bông crocus mỏng mảnh tím biếc trồi ra khỏi những lớp tuyết đọng long lanh dưới mặt trời. Trong chiếc áo ngự hàn thùng th́nh, Sơn lướt tới, bước liêu xiêu như một đạo sĩ bay lên rồi đáp xuống bên những bông hoa. ‘’ Lạ hỉ? Làm sao nó mọc được trong tuyết ? Nó tên chi?’’. Tôi gọi crocus là hoa tầm xuân, loài hoa báo hiệu mùa đầu một chu kỳ tuần hoàn mới của đất trời. ‘’ Tầm xuân bên ḿnh mầu xanh. Bên ni lại tím, thật kỳ diệu...’’ Sơn trầm mặc. Chúng tôi lên dốc. Một lúc sau, Sơn nói như chỉ cho ḿnh nghe: ‘’ không chi cản được mùa xuân đâu!’’.
Gần đỉnh đồi, chúng tôi băng ngang khuôn viên không một vết chân trên tuyết chưa tan. Đi qua một bức tượng đồng, Sơn đứng lại đọc tên rồi hỏi : ‘’ Ai vậy? ‘’ Tôi đáp, tên một thi sĩ. Anh nhắc kỷ niệm ngày anh đến thăm tôi ở Québec. Bữa tôi dẫn anh vào thăm Đại học Laval, một tảng đá cao chừng 5,6 mét, ngang 2,3 mét đặt ngay ở lối vào một pavillon giành cho sinh hoạt của sinh viên. Trên tảng đá, người ta đục những ḍng chữ của Pablo Neruda: j’avoue que j’ai vécu[1]. Anh lẫm nhẩm hôm đó, moi aussi, je l’avoue[2]. Anh vui vui : ‘’ Thành phố toa ở là nơi có văn hoá! Nơi không cần những anh hùng...’’ Trước một tôi ngỡ ngàng, anh kể: ‘’ moa không nhớ ai viết, rằng khốn khổ thay cho những đất nước nhiều anh hùng!’’
Chúng tôi lại đi. Sơn th́nh ĺnh ngừng bước, giọng ngùi ngùi: ‘’ chỗ này là nơi Mai chụp h́nh với moa mùa tuyết qua. H́nh tính làm bao b́ cho CD...’’. Rồi Sơn ngập ngừng: ‘’ viết cho moa về Mai và những thành phố không cần anh hùng ! ‘’. Tôi hồi tưởng thời anh cũng từng nói tôi viết hộ vài ḍng cho Michiko, một người con gái đất Phù Tang đă tha thiết yêu anh. Chữ nghĩa Sơn thừa, cớ ǵ phải nhờ viết hộ nhỉ? Chiều bạn, tôi gửi anh:
Ngày Mai đến
Chăng tơ cho nhện
nhả thơ vào đời
Vết chân anh trên thành phố-không-cần-có-anh hùng
Kén vàng ươm nắng cuối đông
cánh bướm mượt mà gió đợi
Góc công viên tuyết nơn nà trắng tới mênh mông
Anh lại cất tiếnghát
để đêm giật lùi vào nơi không ai đặt tên
v́ ngày mai
ngày Mai lại đến
Tiếng hát của Núi
đưa nắng Mai lên
xua đi những bóng đêm thừa thăi
Những bóng đêm không có bóng con Người.
Mai là Khánh Ly, và Núi là Sơn. Thành phố-không-cần-có-anh hùng th́ tôi vừa nhắc đến rồi. Năm 1998 tôi về Sài G̣n, Sơn kể anh viết và đăng báo ( Tuổi Trẻ?) một bài về chuyến đi Canada, có một đoạn về cái thành phố không cần có anh hùng đó. Cười buồn, anh tiếp, thế là bị Tuyên Huấn TP HCM đánh tơi bời hoa lá.
Ngày tôi hỏi nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo thuở sinh thời cái tên phố nơi anh ở là Huỳnh Văn Bánh th́ anh có biết ông Bánh này làm chi không? Anh cười tinh quái, đáp chắc lại là một anh hùng hay liệt sĩ, loại này ở đây đông lắm, nào là Lê văn Sĩ, Nguyễn thị Bé...Ai biết được họ làm ǵ, chỉ chắc một điều là họ đă hy sinh, thế thôi...
Đất nước ta mà.
Đầy bóng ma của những người chết hai lần, ba lần mà chưa siêu thoát. Đầy tên đường, những tên vô âm hưởng. Và tiếng xe. Và bụi bặm một thời chưa hẳn qua. Một thời đáng lẽ phải quên, nhưng vẫn chưa được!
Nam Dao
9-2011