TuAoRaSong

Nam Dao[1]

 

Từ ao ra sông, từ sông về biển… trên những nẻo đường hội nhập

 

Nguồn: http://hoiluan.vanhocvietnam.org

 

Đây là một bài quan trọng, của nhà văn Nam Dao - Chủ biên Chủ đề Hội Nhập - có thể đuợc xem như những lời “tạm kết” cho chủ đề này của Hội Luận Văn Học Việt Nam, để chuyển qua Chủ đề tiếp theo là “Thơ Việt Nam Hôm Nay” do nhà thơ Thanh Thảo làm Chủ biên.

 

Chúng tôi hy vọng rằng, bài tạm kết của Nam Dao và các tham luận của Hoàng Hưng, Chân Phương, Đặng Thơ Thơ, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Đ́nh Chính, Trần Thiện Huy, Đỗ Kh., Phùng Nguyễn, Nguyễn Đức Tùng, cùng các bài của những tác giả khác, sẽ làm cho cuộc thảo luận văn học này có đóng góp mới lạ vào các vấn nạn Nam-Bắc, Trong-Ngoài, Quốc-Cộng của người Việt lâu nay, và làm cho h́nh thức diễn đàn, tranh luận trong sinh hoạt văn hóa, truyền thông Việt Nam có thêm một ví dụ đẹp.

 

Với lối viết đa thể loại, gộp nội dung văn chương vào thời cuộc, trong một kết cấu vừa chặt chẽ vừa dàn trải, bao quát nhiều ư tưởng có tính đề thuyết của Chủ đề chính mà vẫn lấp lánh biết bao tâm t́nh riêng chung, với các chi tiết và minh họa thâm thúy và đích đáng, tham luận dưới đây là một động tác khép lại: khép lại là để mở ra các thảo luận khác.

Hội Luận trân trọng mời độc giả đón đọc và cho các ư kiến phản hồi để cuộc bàn thảo về Chủ đề “Hội Nhập giữa những người cầm bút trong nước và hải ngoại” được tiếp tục cho đến khi Chủ đề “Thơ Việt Nam Hôm Nay” bắt đầu trong các tuần sắp đến…

 
 

 

Ao có thể là ao nhà, gợi thơ Đặng Đ́nh Hưng, “Bao giờ về trong khoanh một cái ao ngồi giặt yếm cả ngày”. Hay nhớ cô bé hái hoa sen của Bạch Cư Dị, “Tiểu oa sinh tiểu đĩnh, thâu thái bạch liên hồi” (Cô bé chèo thuyền con, đi hái sen đem về)… Ao thường không sâu, mặt nước xanh đục mầu cây sắc lá trồng quanh bờ, tưởng tượng phải mạnh lắm mới nh́n ra chút mây trắng lửng lơ, thật khó mơ mộng những chuyến đi xa như khi ở sông, ở biển. Ao tù, lượng nước thoát rất thấp v́ độ thấm nước của đất đai thấp, phải đợi trời đủ nắng để bốc thành hơi. Không như sông, nước chảy theo ḍng, từ cao đến thấp, t́m đường ra biển. Không như biển, khi động, sóng đập đến vỡ đất. Sóng thần th́ thôi, khỏi nói, có thể cuốn phăng ra khơi tất cả, từ làng mạc đến phố thị. Tsunami dập vào Thái Lan, Indonesia, Tích Lan mới hai năm nay thôi. Thật kinh hoàng, may mà chỉ thi thoảng mới có sóng thần. Thường th́ theo mùa, khi biển lặng, nước xanh như ngọc điểm dăm cánh hải âu chập chờn (Ô, giá mà cuộc đời cứ yên b́nh phẳng lặng như thế th́ đáng yêu làm sao!).

 

 

Ao nhà, bốn biển - Tầm phổ quát của văn chương và những động chạm chính trị

 

Trong Ao nhà và bốn biển, nhà thơ Chân Phương quả quyết: ”Để làm quen với xu thế đa nguyên văn hóa của trái đất hôm nay văn học Việt Nam may mắn có được nhiều khu vực giao tiếp với ngôn ngữ và văn học thế giới nhờ mấy triệu di dân. Tiềm năng của văn nghệ sĩ với trí thức hải ngoại đối với văn học và đời sống văn hóa tinh thần VN có thể nói là vô tận. Đây là chiếc đũa thần Synergy sẽ chắp cánh cho những ng̣i bút VN bay cao bay xa thoát khỏi quán tính lũy tre, tập tục xă huyện, ghetto địa phương, tóm lại là ao nhà chủ nghĩa!’’. Bốn chữ ‘’chủ nghĩa ao nhà’’ rất đắt: tù túng, chật hẹp, và có ǵ đó như vô vọng. Chắc chẳng có ai, trong thế giới mở này, dám nhận ḿnh là tín đồ của chủ nghĩa này, vừa có vẻ bộ tộc bầy đàn kiểu ‘’một giọt máu đào, hơn ao nước lă’’, vừa thủ cựu co cụm lối ‘’ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn’’.

 

Trước bài tham luận của nhà thơ Chân Phương không lâu, GS Hoàng Ngọc Hiến nhắc nhở: “Hội Luận không tránh khỏi động chạm đến chính trị. Nên đặt mọi khuynh hướng chính trị, dưới "tầm phổ quát nhân loại". Nếu Hội Luận truyền được cho độc giả cảm hứng "phổ quát nhân loại", th́ dưới mắt của độc giả, mọi "mầu cờ sắc áo "sẽ trở nên lố bịch.’’. Dĩ nhiên, đối lập quán tính lũy tre làng và tập tục xă huyện với ‘’tầm phổ quát nhân loại’’ là phản ứng tức thời của tư duy theo mô h́nh nhị nguyên, cái gốc của cơ sở triết lư và khoa học Tây Âu cho đến nay. Bay cao bay xa khỏi lũy tre làng và tập tục xă huyện cần, nhưng liệu có đủ, để vươn lên tầm phổ quát? Bay trong văn chương là bay từ đâu? Và tại sao cụm từ tầm phổ quát nhân loại lại đóng rồi mở ngoặc như những cái nháy nháy vốn là ngôn ngữ của mắt, nhất là mắt của một học giả Đông Phương học như GS Hoàng Ngọc Hiến? Chính những câu hỏi này khiến tôi đă bỏ ra 216 chữ phần nhập đề dông dài từ ao đến biển (và nay xin bạn đọc lượng thứ cho). Để xin thưa một số ư:

 

1/ ‘’Tầm phổ quát nhân loại’’ của văn chương có thể ví như đại dương, tố chất là những con người tựa nước, nước ứa ra từ những cái ao, đổ xuống từ những triền rừng đỉnh núi, hội nhập vào thành những ḍng sông. Nước mang hương vị của núi rừng, đất cát, đồng ruộng của từng vùng địa lư, con người mang văn hóa kết cấu từ điều kiện sinh tồn, lịch sử và những giá trị minh triết đa dạng tồn tại qua sự đẽo gọt trong quá tŕnh tiến hoá. Vươn lên được tầm khái quát nhân loại, văn chương đích thực trong điều kiện cá biệt đặc thù nói trên là loại văn chương thấu cảm được niềm vui và nỗi đau sâu lắng nhất của con người ở mức khái quát đến độ tính hạn hẹp địa phương - cả điạ lư lẫn văn hóa - không c̣n là rào cản đối với cảm nhận của người đọc. Có vẻ như một nghịch lư, nói về con người th́ tầm phổ quát nhân loại chỉ có thể đạt được từ những đặc thù văn hóa khi nó đă phủ định được chính nó trong khả năng tiếp cận được một mẫu số chung của con người. Muốn ra biển lớn, ta là ao, rồi là sông, thấm vào ḷng đất nuôi ta, nước tiếp tục cuộc luân lưu cả trên bề mặt lẫn dưới mạch ngầm. Sông sẽ ra biển, chỉ có nước, mênh mang. Nhưng trong mỗi phân tử nước, có mùi, có vị của tầng địa chất, lớp thảo mộc. Tức là có bản sắc.

Tương tự, văn chương hội nhập tầm nhân loại, chỉ có con người. Những con người sống trong một biên giới địa dư, kinh qua một lịch sử, có một nền văn hóa, tồn tại được v́ gắn bó vào sự sống trong những cơn hưng phế. Con người trong bối cảnh, tạm gọi là địa-văn hóa trên, là đối tượng của văn chương mang bản sắc cá biệt. Với lên tầm phổ quát có nghĩa là chắt lọc được từ những đặc thù địa-văn hóa chất người như mẫu số chung của nhân loại. Văn chương ở tầm đó đẩy thân phận làm người lên mức cứu cánh người, với cái quyền tối thượng là quyền mưu cầu hạnh phúc, tất không thỏa hiệp được với khái niệm con người-công cụ cho bất cứ guồng máy quyền lực và khuynh hướng chính trị nào.

 

2/ Làm văn chương với đối tượng những con người-cứu cánh như thế, liệu có thể nào đặt mọi khuynh hướng chính trị dưới ‘’tầm phổ quát nhân loại’’ hay không? Phục vụ con người vươn lên người chứ không vong thân làm kiếp gia súc cho một quyền lực nào phải chăng chính thế đă là một hành xử rất là chính trị? Câu hỏi có khả năng tự trả lời rồi. Nhưng đâu là những yếu tố chính trị, nhất là ở mức thô thiển, khác văn hóa, thậm chí t́m cách triệt tiêu văn hóa?

Một người bạn góp ư: có hai loại người, nhà chính trị và nhà văn/ nhà thơ, cả hai đều say và mê chữ. Tầm nh́n thật dài, tôi luẩn quẩn nghĩ, dài cho đến hàng ngàn năm, th́ những vị chính khách này thành những nhà Tôn Giáo. Ở mức trăm năm, họ làm chính trị nhưng đồng thời là những nhà văn hóa, v́ chính trị phi văn hóa là không gốc không rễ. Nhưng nếu giới hạn vào tầm ngắn hạn, một hai chục hay dăm ba năm, th́ loại người làm chính trị này chỉ biết có quyền lực trước mắt. Và để củng cố quyền lực này, họ chẳng ngần ngại dùng bạo lực để giết văn hóa một khi quyền lực bị đụng chạm, khi th́ đụng chạm thật, lúc th́ như đến từ psychose - loại hoảng trạng tâm thần - giống như người bệnh hoạn đâm sợ ma chẳng hạn. Trong trường hợp này, thể loại văn chương lấy con người làm cứu cánh ở ‘’tầm phổ quát nhân loại’’ chắc chắn dẫu ở trên hay ở dưới chính trị, cũng sẽ là đối tượng của đàn áp chính trị. Chuyện này xưa rồi. Không như một bạn nào đó trong Hội Luận thắc mắc sao từ trăm năm nay, nhà văn/nhà thơ thành món nhậu của các vị làm chính trị có cái gu ăn sống nuốt tươi. Đốt sách giết học tṛ, chẳng chỉ ở bên Đông mà c̣n ở cả bên Tây, là những điều chẳng hề bí mật ǵ hàng mấy ngàn năm nay, từ Tần Thủy Hoàng đến… (để trở về bản quán) đốt sách ‘’Ngụy’’ sau Giải Phóng ở bùng binh chợ Bến Thành năm 1975. Và mới đây, c̣n hôi hổi tính thời sự, công quyền ra lệnh ngưng phát hành và thu hồi tập “Trần Dần-Thơ", dẫu nhà thơ, từng được vinh danh với Giải Thưởng Nhà Nước năm ngoái, đă trở về với cát bụi từ 10 năm nay.

 

 

Hội nhập, chữ nghĩa dấn thân

 

Cho phép tôi chơi tṛ tu từ: nếu hội nhập là assimilation vàhiểu là đồng hóa, th́… hội nhập đáng ghét thật. Nhưng nếu hiểu hội nhập là integration th́ khác.Những thành tố cuộc hội nhập giữ bản sắc (nói ngôn ngữ vật lư, năng lượng), tương tác với nhau nên mới tạo được synergy (tôi gọi là lực liên vận, nhưng một bạn tham gia Hội Luận định danh đúng hơn là cộng lực), và chỉ thế (nghĩa là, lượng entropy giảm khiến hệ thống năng động hơn) th́ hội nhập mới có ư nghĩa. C̣n nếu hội nhập là đồng hóa, ôi thôi ai tai, làm ǵ tạo được cộng lực, và nên dẹp ngay, không cần tốn công gơ compiutơ đến mờ mắt!.

 

Nay xin chuyển qua đề tài chủ: Văn chương cho cuộc hội nhập mang khả năng tạo cộng lực là ǵ?

 

Trước tiên, nói chắc cũng không thừa, văn chương đó là văn chương Việt Nam, chữ nghĩa là tiếng Việt (c̣n khi truyện Kiều c̣n). Nhắc, dẫu có thể gây phản cảm với một Phạm Duy khá ‘’phức tạp’’, “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời, người ơi. Mẹ hiền ru những câu xa vời, à ơi, tiếng ru muôn đời”… Rất có thể thế v́ tôi thuộc thế hệ học vỡ ḷng với Quốc Văn Giáo Khoa Thư, thiếu thời mơ giấc mơ của Dũng trong Loan và Dũng của Nhất Linh, lênh đênh năm nay là năm thứ 45 trên quê người. Làm việc thường nhật th́ khi tiếng Anh khi tiếng Pháp, nhưng khi tôi nằm mơ, lúc mộng lành, lúc mộng dữ, không biết thế nào mà trong mơ tôi chỉ mơ bằng tiếng Việt! Lần đầu qui cố hương sau 13 năm bị lưu lạc, ở cửa khẩu phi trường Gia Lâm thời ấy, một đồng chí công an hải quan khen ‘’Anh đi xa lâu mà tiếng Việt c̣n sơi, cứ như người ḿnh!’’. Phải chục năm sau tôi mới nhận ra tôi quả cứ như người ḿnh: cứ như thôi, v́ tôi là một Việt kiều, khúc ruột ngàn dặm, độxa tính bằng đơn vị đo chiều dài. Viết văn, v́ thế, tôi chỉ có thể là ‘’nhà văn’’ hải ngoại. Khi đọc báo trong nước, nhận thấy tiếng Việt ‘’người ḿnh’’ có vẻ xuống cấp, vừa chỏng lỏn vừa mù mờ, thỉnh thoảng u ơ như ngọng, tôi phàn nàn th́ một anh bạn nhà thơ trong nước cau mày, đáp: "Chúng tôi ngọng, nhưng có 80 triệu thằng ngọng đọc chúng tôi, các ông dẫu lưu loát nhưng chẳng mấy ai đọc. Thế đấy, hè hè… ‘’. Th́ ra trong văn chương cũng có chiến thuật biển người. Ngộ ra chân lư ấy, tôi liều lĩnh viết văn bằng tiếng ngoại. Ôi chao, xin dùng tên phim ‘’Tự thú trước b́nh minh’’, xấu hổ đến chui xuống đất: tôi chỉ chuyển được nghĩa, nhưng những con chữ đều mất hồn mất vía. Thế th́ c̣n ǵ là văn, thưa các bạn! Tôi đành xé, xé cho bằng hết, không để một dấu vết nào.

 

Nhưng cái ǵ tạo ra hồn vía những con chữ?

 

Ngẫm nghĩ măi, th́ ra, a ha, cái ao nhà. Chính nó, nó tạo ra hồn vía, với những con chuồn kim đủng đỉnh lượn ṿng. Với cánh bướm trắng chập chờn trong cơn gió thổi qua cây xào xạc, mùi ngọc lan thoang thoảng, tiếng bọt nước vỡ khi con cá dưới sâu quậy đệm cho tiếng ễnh ương à uộp lúc đêm về… Nhưng chỉ bắt được hồn vía chữ, chưa đủ. Những con chữ, hồn có thể có vía có thể có, nhưng vô nghĩa th́ chúng làm được ǵ trong cơi người ta? Nhất là khi văn chương với lên tầm phổ quát nhân loại như đă nói phần trên, phụ họa với gợi ư của GS Hoàng Ngọc Hiến về ước vọng tạo ra một cuộc hội nhập giữa những nhà văn/nhà thơ trong nước và hải ngoại.

 

Nhân loại, nôm na là loài người. Tất cả là v́ con rắn nó dụ Eva ghé răng cắn vào trái cấm khiến cái xương sườn thừa của ông Adam mang được khả năng cống hiến t́nh yêu thân xác, và từ đó lẩy giống sinh mầm khiến cái quả đất bé như một ḥn bi mà nay phải đèo bồng đến trên dưới 6 tỉ nhân mạng. Địa đàng, chỉ c̣n ở phía sau. Đi tới, là Thiên đàng, với điều kiện, không phải ai muốn leo vào cũng được. Trong khi chờ đợi th́ cơi nhân gian này hiện ra sao? Xin thưa ngay, nó ghê lắm, nhất là trong bối cảnh toàn cầu ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 21 [2]. Đáp câu hỏi vừa nêu cần, v́ văn chương ở tấm phổ quát trên con đường hội nhập trong bối cảnh trong-ngoài Việt Namhiện nay không có thể tiếp tục bó ḿnh trong lũy tre làng, tập tục xă huyện, ghetto của những vĩ nhân tỉnh lẻ, những thiên tài mà kiến thức đáy giếng cho phép họ tin trời chỉ to như vung trên đầu. Cơi nhân gian gần gụi và thiết thân của những nhà văn/nhà thơ chẳng ở đâu xa, chỉ bế tất cả cảm quan mới không ngửi thấy, không nh́n thấy, không nghe thấy. Ở Việt Nam, cứ ra đường là có muôn vạn cảnh đời có thể lấy làm đối tượng sự viết. Từ đứa bé bụi đời đến cô thôn nữ lên tỉnh ra mắt các chú rể Đại Hàn, Đài Loan. Từ người đàn bà xa chồng xa con xin đi theo diện xuất khẩu lao động để vun vén gia đ́nh đến người đàn ông ngậm mối hờn bị bóc lột trong xí nghiệp gia công cho nước ngoài…

 

Nhưng viết là ǵ? Xếp những con chữ theo một lớp lang là để biểu tỏ cái ǵ ngoài những con chữ, viết là phát hiện, vạch trần, cáo buộc những hiện thực phủ nhận con người. Viết là bày tỏ khả năng có thể khác đi của loại hiện thực phi nhân. Viết thành văn, chữ nghĩa đấy rồi th́ không một ai c̣n có thể tự biện bằng cách bảo là tôi không biết nên tôi vô tội!

 

Chính v́ viết như vậy mà viết là hành động có ư thức, nhất là ư thức trách nhiệm. Nhưng tại sao lại viết? Người viết là viết v́ tất có người đọc. Người đọc ở đây hoàn toàn tự do cảm nhận cái thế giới vén màn bởi người viết, kẻ cũng hoàn toàn tự do chọn lựa kéo những bức màn cần kéo. V́ vậy, tự do là khế ước bất thành văn được hiểu ngầm giữa hai đối tác viết và đọc. ‘’Viết, theo J.P. Sartre (trong Qu’est-ce que la littérature, Le Temps Moderne, 1947), như thế là giành lấy tự do, và muốn hay không, đó là một động thái dấn thân’’.

 

Chữ nghĩa dấn thân, ở một nghĩa nào đấy, là văn chương tự do đèo bồng trách nhiệm đối với người đọc, và nói rộng, đối với toàn xă hội. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cận đại tạo ra không biết bao nhiêu phân liệt, ngộ nhận, hận thù và dối trá, văn chương ở tầm phổ quát nhânloại không thể khác là văn chương của SựThật, của những Tiếng Nấc và của Nước Mắt. Nếu nó mở ra một con đường hội nhập như GS Hoàng Ngọc Hiến gợi ư, th́ mong sao, nhà văn viết như t́m cách lau khô nước mắt, hóa giải những oan khiên tiếp tục ung độc. Và nhất là tránh cho những thế hệ mai hậu phải đổ thêm những giọt lệ đau xót tương tự luôn có khả năng lặp lại trong lịch sử.

 

Văn chương tiến đến mục tiêu hội nhập, tôi thiển nghĩ, là văn chương dấn thân đ̣i quyền làm tác nhân cho một tương lai, không thụ động đóng vai nạn nhân, cũng không lạnh nhạt quay lưng lại với đồng loại trong bất công và hủy diệt. Nhưng xin đừng nhầm văn chương với tuyên ngôn chính trị. Cái chất liệu của văn chương là con người, phận người, t́nh người chứ không là khẩu hiệu. Chẳng cần nói xa, chúng ta đều biết loại văn chương hiện thực xă hội chủ nghĩa đă là ǵ ‘’đêm trước đổi mới’’.

 

 

Sự Thật và những nỗi đau

 

Sau câu đáp viết là ǵ và tại sao viết, tất là câu hỏi viết ǵ, và để cho ai? Nhưng trước khi mạo hiểm trả lời, chúng ta hăy đi một ṿng ‘’ao nhà’’ trong bối cảnh toàn cầu đă lướt qua trong cước chú 2. Ao nhà quả là đục. Một trong bốn nước c̣n gọi là những nước Cộng Sản (CS), Việt Nam là mô thức đồng dạng (isomorphe) của Trung Quốc vĩ đại, dĩ nhiên chậm 10 năm, tủn mủn nhỏ bé hơn, không (v́ không thể) tham vọng bá quyền. CS nay chỉ là tên gọi, trừ cái phương thức độc trị một Đảng cầm quyền, hệ luận là tổ chức guồng máy công quyền rập khuôn Lênin-Stalin, pha hương vị thuốc bắc Mao, có mùi mèo đen của Đặng, và hiện đang đệm mầu kỹ trị họ Giang lên trên một thực tại nhiều bất cập. Việt Nam th́ khốn khó hơn: nền kinh tế có định hướng XHCN hầm bà lằng đánh lận của công ra của tư, những Doanh Nghiệp Nhà Nước[3] (những con sâu đục khoét c̣n ẩn dưới đáy nồi canh tham nhũng?) ân huệ nhiều, hiệu quả thấp, là h́nh thức lũng đoạn tài sản kinh tế. Rồi ô nhiễm sông, ô nhiễm không khí, rừng bị phá hủy gây lũ lụt hàng năm… Rồi quan chức các cấp xă-huyện cũng cướp đất nông dân, những người làm mà không có cái ăn, bỏ quê kéo nhau lên đô thị làm công cho các loại xí nghiệp chủ yếu là gia công (giá rẻ) cho ngoại quốc, gia công mát-xa, gia công t́nh dục, đi ăn xin, bụi đời có khi chỉ mớí 5,7 tuổi… Sau khi xă hội hóa (tức là bắt người tiêu thụ trả tiền) y tế, Nhà nước vừa rồi lại tính xă hội hóa ngành giáo dục đă xuống cấp đến mức báo động, định tăng học phí (và thế là, rùng rùng học sinh sinh viên bỏ học). Trong khi đó, liên minh quan-thương ngày càng lộ mặt, và trong những đô thị ‘’phồn vinh giả tạo’’ vượt xa thời ‘’ngụy’’, có những đại gia bỏ đến 100 triệu đô la mua xe hơi và chở về bằng máy bay!

 

Xă hội ră ra, đạo lư không c̣n[4], bây giờ chỉ có tiền. Và bạo lực. Và vô số những con người nạn nhân. Vô vọng, cha mẹ bán con, chúng lưu lạc sang Kampuchia, bị bắt buộc bán ḿnh từ khi 11,12 tuổi[5]. Vô vọng, cha mẹ đẩy con đi lấy chồng Đài Loan, với không biết bao nhiêu là thảm kịch [6].

Văn chương dấn thân không thể khác là văn chương vén màn sự thật cho nạn nhân cất tiếng nói. Và cất tiếng khóc, để nhân loại cùng nghe. Thế nhưng tại sao[7] nhà văn lại ngoảnh mặt làm ngơ?

 

Trong Ao nhà và bốn biển, nhà thơ Chân Phương trích Cao Hành Kiện: ‘’Văn học đứng trên ư thức hệ, biên cương quốc gia và ư thức chủng tộc. Văn học là sự quan sát phổ quát những éo le của kiếp ngựi và không có đề tài nào là cấm kỵ… Đối với nhà văn Sự Thật trong văn học hầu như đồng nghĩa với đạo lư, đó là đạo lư tối cao của văn học...” (Diễn từ Nobel)

 

Sự Thật, có mặt nổi. Và mặt ch́m. Mặt nổi, là hiện tượng, có thể quan sát đứng ở góc độ bên ngoài. Xin nhắc chuyện ‘’thầy bói xem voi’’. Mù, có vị sờ thấy chân, có vị sờ thấy cái tai, cái ṿi, cái đuôi… Tả, làm sao có được con voi thật như con voi có đủ cả ṿi, tai, chân, đuôi? V́ thế, nhà văn/nhà thơ biết vị trí quan sát quyết định cái ḿnh viết, và không đ̣i hỏi thành phẩm của ḿnh phải là thứ chân lư độc tôn mà biết, và thậm chí vui vẻ chấp nhận, cái sự thật của ḿnh là một phần sự thật. Nhưng ở bất cứ vị trí quan sát và cảm nhận nào đi chăng nữa, nhà văn/nhà thơ cũng chỉ nói lên cái sự thật đó. Đi chệch một ly, ngụy trá thành văn, và thế là nhà văn/nhà thơ chẳng khác ǵ kẻ đi viết quảng cáo khuyếch mại cho thứ sản phẩm chắc chắn sẽ gây độc cho người đọc.

 

Mặt ch́m của Sự Thật, cứ tạm gọi là bản chất, chỉ có thể phân tích từ những yếu tố nội sinh kết hợp văn hóa và lịch sử. Hiểu được, phải kinh qua tŕnh tự những sự cố trong thời gian, gạn đục khơi trong, giải tŕnh những cách nh́n và quan điểm cục bộ, và nhất là soi rọi những điều mà thường những kẻ viết sử thuộc phe chiến thắng cố t́nh ém nhẹm. Tham luận Khi nhà văn không chỉ là kẻ đồng lơa của Phùng Nguyễn trong Hội Luận này nêu lên ‘’… trách nhiệm của nhà văn (…) như là một nhân chứng quan trọng của lịch sử. Cần phải nói thêm là vai tṛ này đ̣i hỏi không chỉ có trách nhiệm bảo vệ và xiển dương Sự Thật mà c̣n cần thiết phải lật mặt nạ, đưa ra ánh sáng những trá nguỵ, như là đối nghịch của Sự Thật, mà từ đó nọc độc văn hoá mọc ra như những chiếc ṿi bạch tuộc âm độc’’. Nhưng nhà văn không viết sử, một thứ nghiệp vụ khá chuyên môn. Trong văn chương, tôi thiển nghĩ, trách nhiệm nhà văn là nhân chứng cho những truân chuyên của con người trong biến động lịch sử. Để tránh những vết lầy quá khứ, con người vừa đề cập là những con người nạn nhân. Họ oằn lưng cúi đầu chịu oan khiên, chưa thể cất tiếng, im lặng tủi hờn trong bóng tối ô nhục, thậm chí tiếp tục bị sỉ vả, dày xéo, mất mát. Họ không có mặt trong lịch sử của những người chiến thắng. Làm nhân chứng cho truân chuyên những con người nạn nhân là nói lên một Sự Thật, thứ Sự Thật không có chỗ đứng ‘’chính trị’’ nhất thời, nhưng lại là những Sự Thật cần biết hầu tránh những vết xe đổ mai sau. Hơn ba mươi năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, quả có rất nhiều sự kiện lịch sử bị tô son trát phấn thành hề trên một sân khấu đầy đau thương. Có những sự kiện bị đánh tráo, xuyên tạc. Có những chuyện giả hóa chân, ảo thành thực[8]. Có những vết thương lở lói không lành nhưng vẫn bị sát muối bôi bẩn. Và vẫn c̣n rất nhiều nạn nhân tiếp tục bị chà đạp [9]. V́ thế, đi t́m một sự hội nhập trong bối cảnh Việt Nam giữa những nhà văn/nhà thơ là cùng nhau chia sẻ vai tṛ chứng nhân cho những Sự Thật nh́n từ nhiều phía. Nói như Wiesel, trích dẫn trong bài tham luận Hội nhập và nơi chốn của Đặng Thơ Thơ, “Nhân chứng bắt buộc chính ḿnh phải cung khai. Cho tuổi trẻ hôm nay, cho những đứa bé sẽ sinh ra ngày mai. Hắn không thể để quá khứ của hắn trở thành tương lai của những thế hệ sau.”  có thể là mục tiêu dễ tạo đồng thuận.

 

Sự Thật chúng ta vừa đề cập chắc chắn gắn liền với những nỗi đau. Đặng Thơ Thơ viết:

‘’Khi nói về Katyn, cuốn phim tường thuật vụ cộng sản Liên xô tàn sát 22,000 người dân Ba Lan, một vụ tàn sát tập thể đẫm máu năm 1940, đạo diễn Andrzej Wajda nhận định: “Chẳng có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau bằng cách bày tỏ nó.” Bày tỏ một nỗi đau là điều chẳng đặng đừng, cho đến khi nỗi đau được nh́n nhận. Cho đến bây giờ, điều ấy chưa xảy ra. Vẫn c̣n những tiếng nói bị vô hiệu thành câm lặng. Vẫn c̣n những tấm màn ảo tưởng và ngộ nhận giữa trong và ngoài nước. Vẫn c̣n những phân chia giữa trong nước với nhau, và ngoài nước với nhau. Vẫn c̣n cái nh́n rạch ṛi giữa cộng sản và quốc gia, giữa những thể chế và lư thuyết tưởng đă phá sản từ lâu. Nhất là vẫn c̣n tiếp tục chính sách bôi xóa lịch sử và bôi xóa những nỗi đau tập thể, như nỗ lực phủ nhận và bịt miệng những nạn nhân biến cố Mậu Thân – Huế từ phía nhà cầm quyền trong nước. Chính ở khoảng trống của nỗi đau bị bôi xóa này, không phải ở lịch sử chiến tranh và ư thức hệ hậu chiến tranh, là nơi chúng ta cần thiết phải hội nhập. Hội nhập để viết đầy lên khoảng hư vô ấy những nỗi đau có thật, một chương dài có thật trong lịch sử Việt Nam. Chỉ khi đó mới có thể tin tưởng và an tâm về một ḍng văn học bằng tiếng Việt không phân biệt trong ngoài và vượt qua các biên giới địa lư, không gian, quá khứ, lịch sử và tâm thức.’’.

 

A, những nỗi đau! Dân tộc chúng ta thiếu ǵ th́ thiếu nhưng thừa mứa những nỗi đau. Có những nỗi đau kéo chúng ta gần nhau hơn v́ t́nh đồng cảm nhân loại. Đó là những nỗi đau của nạn nhân. Văn chương dấn thân đứng về phía những tiếng nấc và nước mắt hẳn sẽ làm cho những nhà văn/nhà thơ gần gũi nhau hơn. Nhưng cũng có những nỗi đau, nhất là nỗi đau khi nạn nhân là chính ḿnh, khiến ḿnh phản ứng co cụm lại để tự vệ. Đối với nhà văn/nhà thơ, đó là khi ḿnh băn khoăn, hoài nghi trước những điều có thể chỉ là ngụy tín. Chẳng hạn, Phùng Nguyễn lấy chuyện ‘’lính ngụy ăn thịt người’’ làm điển h́nh. Anh nói, rất đau đớn: ‘’… Chúng ta thường nghe nói rất nhiều về những nọc độc văn hoá do tàn dư Mỹ nguỵ để lại. Chúng ta không hề nghe nói về điều tương tự ở phía những kẻ thắng trận. Điều này có thể hiểu được, kẻ thắng được quyền viết lịch sử, bên cạnh những đặc quyền khác, kể cả quyền nuôi dưỡng những nọc độc văn hoá do chính ḿnh tạo ra. Tôi sẽ không ngạc nhiên nhiều lắm, cho dù vẫn tiếp tục cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, nếu một ông A bà B nào đó vẫn tiếp tục bám vào huyền thoại "lính nguỵ ăn thịt người". Tôi hiểu được hiệu quả của "tẩy năo" hoặc của tuyên truyền nhồi sọ theo kiểu Đức quốc xă. Nhưng tôi sẽ vô cùng ngạc nhiên, vô cùng thất vọng, và vô cùng bị xúc phạm nếu người đó là một nhà văn, một ng̣i bút tài năng. Tôi đánh giá cao và do đó kỳ vọng nhiều vào văn nghệ sĩ, đặc biệt văn nghệ sĩ sáng tạo. Họ làm đẹp đời sống. Họ mang chúng ta đến gần với Chân, Thiện, Mỹ. Họ, trong nhiều trường hợp, là hy vọng và ngay cả là lương tâm của xă hội, đặc biệt trong những xă hội mà lương tâm bị què quặt hoặc hoàn toàn vắng bóng. Họ không thể là đồng loă của bóng tối, gieo rắc trá nguỵ, gieo rắc những nọc độc văn hoá vốn sẽ c̣n ở lại rất lâu sau khi họ ra đi vĩnh viễn. Đây là một điều ghê rợn, chỉ để nghĩ tới!‘’.

 

Th́ ra cuộc truy lùng Sự Thật của văn chương đích thực không phải là chuyện chỉ cứ xuôi buồm thuận gió. Ngoài Sự Thật ở phía nạn nhân, c̣n có thể có những ngụy tín ở trong chính ḿnh, và khi thành chữ nghĩa, nó lại tiếp tục tác hại gây thêm những nạn nhân khác. Đôi khi, nhà văn/nhà thơ phải rà soát lại và thanh tẩy những chất độc chính ḿnh nhiễm phải để tránh ‘’đổ bệnh’’ cha ông đến đời sau. Nhiễm trùng văn hóa, tác hại đục ruỗng một xă hội không thua ǵ vi khuẩn lậu, giang mai, hội chứng suy giảm miễn dịch (AID). Thao tác văn hóa, hẳn cũng cần bao cao su như khi hành lạc, và nếu không ư thức được, th́ tốt nhất là chúng ta thôi đừng viết lách, từ chối cái trách nhiệm nhà văn mà thao tác viết - tức lập ngôn - đ̣i hỏi giá trị công chính và ḷng nhân ái.

 

 

Một lần bốc mộ, giải oan cho cuộc bể dâu này 

 

Có lẽ bước đầu cho những nhà văn/nhà thơ mong mỏi hội nhập là đồng thuận về sự cần thiết của tiến tŕnh giải ảo và giải độc. Nhu cầu này rất Việt Nam, một đặc thù di căn từ văn hóa và lịch sử, nhất là sau cuộc chiến tương tàn đă đẩy hơn ba triệu người lưu lạc xứ ngoài, kẻ th́ là thuyền nhân mất thân quyến trên mặt biển, người th́ lên máy bay đi dạng HO, ḷng tràn đầy tủi nhục chiến bại, không c̣n chỗ đứng trong xă hội gốc gác sinh thành ra ḿnh. Cái xă hội này ruỗng mục xuống cấp. Thử hỏi, những người đi làm cách mạng với cái lư tưởng tạo ra công chính và tiến bộ, những thương phế binh hai phía từng cống hiến thân xác mong giải phóng một đất nước khỏi bạo quyền phải đau xót đến mức nào trước t́nh cảnh xác xơ của đại bộ phận dân tộc? V́ thế, thằng khôn th́ đă vượt biên, đến cái cột đèn mà ‘’lưu vong được’’ nó cũng đi! Kẻ chiến bại xưa nay thành Việt Kiều mỗi năm gửi về nước gần 6 tỉ đô, úm ba la, xoè tay ra, phép lạ biến họ thành một bộ phận khăng khít của dân tộc, khúc ruột ngàn dặm thân thương… Máu chẩy, ruột mềm. Máu thời hiện đại không đỏ mà xanh, là những đồng đô la chui vào túi liên hiệp quan-thương, ăn trên những công tŕnh vay vốn ngoại quốc làm một nhưng lấy hai, mai mốt con cháu (không phải con cháu họ) sẽ trả. Trong một xă hội chỉ ‘’định hướng XHCN’’ mù mờ để tập trung tài sản quốc gia, chính trị Mác-Lê vẫn là môn bắt buộc ở mọi cấp trong giáo dục. Mác sống dậy chắc lắc đầu, không thể nào hiểu được chuyện Công Đoàn a ṭng cấm công nhân đ́nh công khi bị bóc lột. C̣n Lênin, gật gù, chuyên chính nước mắm có nặng mùi, nhưng phần hiệu quả ḱm kẹp quả là một đỉnh cao nhân loại. Lịch sử bị bẻ quẹo, chẳng mấy ai tin nên không quan tâm, ngay học sinh phải học cũng là học lấy lệ [10], quá khứ cứ thế bị chôn vào quên lăng, và mấy ai hỏi tương lai không quá khứ là ǵ, có khi lội ngược ḍng để co quắp nằm sau cả quá khứ?

 

Nhưng, lại trích Phùng Nguyễn về việc tháo gỡ nọc độc ‘’lính ngụy ăn thịt người’’: ‘’Những người đă (…) và đang chủ trương chính sách “đào sâu chôn chặt” với hy vọng rồi những điều tàn tệ như thế này sẽ lặng lẽ tan biến cùng thời gian thực ra đang vô t́nh trao tặng con cháu ḿnh một di sản của ô nhục. Về tác hại đường dài, có lẽ không cần phải dài ḍng. Người Mỹ đă ngưng rải chất độc da cam lên đồng ruộng quê hương ta ngay cả trước khi chiến tranh chấm dứt, nhưng việc xuất hiện những trẻ sơ sinh quái thai, hậu quả của hoá chất độc hại này, vẫn chưa thấy chấm dứt. Trong khi đó, người Việt tiếp tục nuôi dưỡng và phun nọc độc vào nhau sau hơn ba thập kỷ. Đường xa vô tận!’’.

 

Than như thế, nhưng rồi anh vẫn dũng cảm viết tiếp: “Phá đổ một tín điều, tháo gỡ một nọc độc văn hoá không hề là điều dễ dàng. Đây là một điều vô cùng khó khăn, thậm chí đau đớn. Đau đớn ngay cả chỉ để nói đến. Nhưng vẫn phải nói, trong đau đớn, một cách đau đớn. Bởi v́, trích từ Hoà giải phẫu của Phan Nhiên Hạo, "đây là sự đau đớn không tránh khỏi trong giải phẫu chữa trị bệnh di căn.". 

 

Thuở nhỏ, tôi được tham gia lễ bốc mộ một bà cô họ khá gần. Bà nổi tiếng đa đoan cay nghiệt, sinh thời hành hạ cả nàng dâu lẫn con trai, lắm khi bắt con ḿnh quấn tóc vợ vào chân giường rồi đánh. H́nh ảnh anh chồng nước mắt nước mũi thương vợ mà vẫn cứ phải nghe lời mẹ thượng cẳng chân hạ cẳng tay đến nay với tôi vẫn c̣n ám ảnh. Bà cô tôi mất, chôn ở làng thời Tây đổ bộ vào Hải Pḥng năm 1947. Đến khi bốc mộ, họ mạc tề tựu, anh con trai rửa từng cái đốt xương, xếp ngay ngắn, miệng mếu xệch trong khi vợ anh lạnh lùng làm phận vụ nhưng chắc trong ḷng c̣n oán hận. Ông tôi gọi lại, bảo: ‘’Con ạ, nghĩa tử là nghĩa tận. Khi sống mẹ chồng con cay nghiệt, làng xóm biết cả, và nay chết th́ dẫu có ân hận chuyện đă rồi cũng chẳng làm được ǵ đền bù cho con.” Chỉ vào đứa con trai chị ta ôm trong tay, ông tôi tiếp: “Cháu nó lớn lên rồi cũng vợ cũng con. Điều mẹ chồng con xấu với con, con sẽ không như thế với con dâu của con, và đó chính là cái điều người chết nằm xuống cho lại những người sống để hóa giải oan khiên’’. Không biết tiếp thu thế nào nhưng khi di cư vào Nam năm 1954, chị vợ đă lo và nuôi cho đàn em của ông anh tôi nên người. Khi chị qui tiên, những đứa em chồng đă để tang chị như tang mẹ.

 

Lịch sử tang thương 50 năm qua cũng như bà cô cay nghiệt kia. Bốc mộ, có lẽ chúng ta cũng phải cùng nhau chau chút rửa từng mẩu xương, xếp đặt thành h́nh dạng con người mặc dầu khi sinh tiền có thể cái h́nh dạng kia từng hận thù cắn xé như thú vật. Và nhủ với nhau rằng, bài học cuối cùng của sinh ly tử biệt là làm sao những lỗi lầm trong quá khứ của những người đă nằm xuống không được, và không có quyền, trỗi dậy như thứ âm binh tiếp tục về truy bức những người đang sống. Đó là cách, theo tôi, thanh tẩy tâm thế để sống và làm phần vụ của mỗi người, kể cả phần vụ của những nhà văn/nhà thơ mà vai tṛ văn hóa tất quan yếu. Trên thế giới, nơi nơi là đấu trường, và trong bóng tối những khúc ngoặt có thể có những nhát chém không ngần ngại của bạo lực đổ xuống những kẻ cô yếu. Những nhát chém không chút xót thương đó thường đến từ sự ngốc dại thiển cận, ḷng tham lam tị hiềm. Mượn lời Goethe, chống báng bằng cách cấm đoán sự ngốc dại th́ ngay cả Thượng Đế cũng bó tay. Nhưng nếu chúng ta hiểu, tất là sẽ nhẩy qua được cái bẫy của sự bất minh, những ngộ nhận, và những phân liệt tàn phá cuộc sống. Hẹn một ngày nào đó chúng ta cùng chắp tay trong một cuộc đại lễ giải oan cho cả dân tộc, cả người thắng cũng như người thua, tôi mượn hai câu thơ của Tô Thùy Yên ‘’Chút rượu hồng đây xin rưới xuống / Giải oan cho cuộc bể dâu này’’ làm quà tặng bạn, và tin rằng hội nhập không phải chỉ là một thứ huyễn ảnh vô thường.

 

 

Tạm kết một đoạn đường: Văn chương và tâm thế hội nhập

 

Văn chương trên quá tŕnh hội nhập xóa đi làn ranh giữa những nhà văn/nhà thơ trong và ngoài nước, chủ đề cho cuộc Hội Luận này, là văn chương dựa trên ư thức tự do, cơ sở đạo lư là Sự Thật, cưu mang nhân bản như thuộc tính tất yếu. Đó là văn chương của tiếng nấc và nước mắt nạn nhân trong bối cảnh bạo lực toàn cầu đang tước đoạt nhân phẩm những người khốn khổ, đẩy họ vào đường cùng đến phải bán thân để sinh tồn, lay lắt sống trong tuyệt vọng. Trong hoàn cảnh Việt Nam, nền văn chương trong tiến tŕnh hội nhập này không thể không đặt vấn đề giải hóa những thứ nọc độc văn hóa tiêm nhiễm như di căn từ một lịch sử phân liệt chia cắt những bộ phận dân tộc một thời gian quá dài. Phải vén màn, liệt kê những loại nọc rắn, phá bỏ những ngụy tín, lột những thứ mặt nạ trá giả lạm danh nghĩa đất nước và dân tộc. Mặc dầu chiến tranh đă kết thúc trên 30 năm nay, hậu quả của nó vẫn lẩn quất như hồn ma đâu đây trong tâm thức người Việt Nam chúng ta, cứ chờ dịp là xuất hiện dưới những ‘’mầu cờ sắc áo’’ được tô vẽ qua những sự thậtc̣n giấu diếm, những nỗi đau chưa được gọi tên, những oan khiên chôn chặt đào sâu, những ngộ nhận được nuôi dưỡng như sữa độc truyền đời đến những thế hệ sau… Dân tộc ta bất hạnh. Và những nhà văn, nhà thơ - bên trong Việt Nam hay ở hải ngoại - không thể cứ măi măi là đồng lơa cho dối trá, hận thù, ngụy tín, bất công… hóa trang bằng thứ từ ngữ phấn son tráo trở nhân danh những giá trị con người. Đó là điều kiện cần cho cuộc hội nhập trong-ngoài.

 

Thật ra, cuộc hội nhập trong-ngoài của những nhà văn/nhà thơ Việt Nam  là một phần nằm trong cuộc hội nhập toàn cầu tất yếu trong thế giới ngày nay. Cuộc hội nhập văn chương rộng khắp này bắt buộc những sản phẩm văn hóa mọi vùng địa lư phải được nâng lên tầm phổ quát nhân loại. Tuy không theo ‘’chủ nghĩa ao nhà’’, nhưng người viết chỉ có thể chắp cánh bay vào bầu trời văn hóa thế giới từ những đặc thù dị biệt văn hóa của ḿnh, với khả năng phơi bày biểu cảm cái chất người tạo nên mẫu số chung, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ư thức hệ… của nhân loại này. Làm được thế, chúng ta không là con sáo bách thanh. Loại sáo này ăn ớt đến tróc lưỡi, có khả năng bắt chước đủ giọng chim, từ hoàng oanh, chích cḥe cho đến chim cu, chim sẻ, và chính v́ thế nó hót trăm giọng nhưng không có giọng riêng của nó. Là nhà văn/nhà thơ, chúng ta bay lên từ ao nhà, vượt lũy tre làng, với giọng hót của ḿnh trong đó có nắng gió quê hương và nhất là những nỗi đau chưa thành lời vẫn đè lên kiếp sống của đồng loại. Bay cao đến đâu, tùy khả năng. Điều đó không quan trọng bằng ư thức cất cánh cho đúng đường bay nhân loại.

 

Có văn hoá hội nhập, cần nhưng chưa đủ cho một cuộc hội nhập,lễ hội đoàn viên của anh em gần xa c̣n sống sót sau những đổi rời. Lễ hội đó rồi sẽ có, và thêm một lần, tôi xin trích Đặng Thơ Thơ:

‘’Hăy làm nhân chứng cho sự sống sót của ḿnh, v́ đó là lư do chúng ta được chọn để sống. Hăy lắng nghe những lời chứng đó. Hội nhập không phải chỉ đ̣i hỏi người khác chấp nhận ḿnh và trong cùng lúc bôi xóa những yếu tố đă làm nên người khác, những kư ức cá nhân, những kinh nghiệm, lịch sử của họ mà ḿnh không từng trải. (… ) Hội nhập lư tưởng như vậy mở ra khả năng cho mỗi người nh́n được từ cái nh́n người khác về thế giới quanh họ, và cả cách họ nh́n ḿnh và thế giới của ḿnh. Những cuộc hội thảo thường xuyên và những cái bắt tay chưa chắc đă dẫn đến hội nhập, v́ sự hội nhập thực sự chỉ xảy ra trong ḷng mỗi con người, khi chúng ta chấp nhận những ǵ khác biệt ḿnh.’’

 

Đó là tâm thế, điều kiện đủ, để tạo nên hội nhập.

 

 

Québec, 6/4/2008

Nam Dao

 



[1]Tạm kết chủ đề Hội Nhập, lẽ ra phải viết một bài tổng hợp tất cả những ư kiến đă đề xuất. Bài này không có tham vọng ấy, lư do là lực bất ṭng tâm. Tôi xin phép qui về một số đóng góp giới hạn, và thành thật cáo lỗi với những anh/chị tham gia cuộc hội luận là đă không có khả năng tŕnh bày đầy đủ mọi khía cạnh nên và cần có. Thiết tưởng chúng ta mới đặt bước đầu, hội nhập là chuyện đường dài, và hy vọng nếu c̣n những đóng góp khác trên chủ đề này th́ Ban chủ trương Hội Luận Văn Học Việt Nam (HLVHVN) tiếp tục trân trọng, hiển thị, gây tranh luận, và nhất là tạo ra một sự đồng cảm thân ái, điều kiện cần để hội nhập thành hiện thực.

 

[2]Điểm qua thời hậu chiến ‘’lạnh’’: một khi khối XHCN Đông Âu ră thành những mảng bèo dạt mây trôi, bàn cờ thế giới không c̣n đối trọng chính trị, lập tức chiến tranh địa phương cục bộ xẩy ra với sự đồng lơa của những thế lực Tây Âu và Bắc Mỹ. Nam Tư, v́ vấn đề dân tộc. Trung Đông, chiến tranh ở Afghanistan và Irak, v́ dầu lửa, nhưng âm hưởng một cuộc Thánh Chiến với cái mà Tổng thống Hoa Kỳ G.W. Bush gọi là Trục Ác trên thế giới. Đây là hệ luận thứ lư thuyết S. Hungtinton về sự ‘’đụng độ’’ giữa những nền văn minh, và theo cách nh́n của Fukuyama, kẻ lớn giọng tuyên bố sự cáo chung của lịch sử, th́ sẽ chỉ c̣n một  trong tương lai, dĩ nhiên là với những giá trị nhân bản made in USA, manh nha mang đến cho toàn nhân loại chế độ dân chủ, điểm kết và đỉnh cao của loài người tiến hóa.Nhưng trên thực tế, người Palestine vẫn c̣n đi đ̣i Tổ Quốc, lănh địa Liban bị lấn đánh, quân đội Mỹ, Canada… với kỹ thuật chiến tranh hiện đại không dẹp được phiến loạn Trung Đông với bom ‘’thủ công’’, Bin Laden của cái ngày tai họa 9-11 th́ cao bay xa chạy, thỉnh thoảng ghi băng truyền h́nh nhắc nhở thất bại cuộc tập nă của Bush.

Về cộng đồng xă hội Mỹ và Tây Âu, mức thu nhập b́nh quân ngày chênh lệch một lớn, người giầu ngày thêm giầu, tầng lớp trung lưu tương đối nghèo đi, những chính sách an sinh công cộng bị cắt giảm, ‘’tư hóa’’. Trong khi đó, ăn cướp có tŕnh độ và ở cấp toàn cầu tḥ mặt (Enron, C. Black…) với hàng trăm tỉ đô la thất thoát, đồng thời môi trường ô nhiễm, và đến nay độ thải khí CO2 là nguyên nhân khiến khí quyển ‘’nóng’’ lên và tạo ra lũ lụt, thiên tai… là có cơ sở khoa học. Thế mà, v́ quyền lợi riêng, cái quốc gia gây ô nhiễm nhiều nhất là nước Mỹ dân chủ từ chối không kư vào qui ước Kyoto tập hợp rất nhiều nước trên cái ‘’làng’’ địa cầu này đă đồng ḷng cứu nguy cho trái đất nứt nẻ! Thế giới tuy nhỏ nhưng c̣n hơn 800 triệu người Phi châu, với chiến tranh sắc tộc (Rwanda, Congo…), đằng sau là vũ khí và quyền lợi (khai thác kim cương, vàng, dầu lửa…) những nước ’’tân tiến’’. Nhưng Nam Phi là một hy vọng. Đ̣i được độc lập, dầu có nhiều sắc tộc và với di căn lịch sử của apartheid c̣n hằn vết, nhưng những tác nhân chung sống ḥa b́nh và thiết lập được một thể chế dân chủ - tuy ở bước đầu đă chứng tỏ tương đối vững chắc - phản biện hùng hồn đối nghịch quan điểm không thể có dân chủ khi dân trí c̣n thấp (sic!). Á châu bề ngoài có vẻ khá hơn, với những Con Rồng quậy cánh đạp chân, giai đoạn kinh tế cất cánh ngoạn mục nhưng nay chừng ít nhiều chựng lại. Không thể không đề cập đến Trung Quốc và Ấn Độ. Cả hai cùng phát triển nhanh, với hai thể chế khác nhau, một bên tập trung toàn trị và bên kia, dân chủ đại nghị với một cơ cấu xă hội truyền thống dựa trên đẳng cấp. Nhưng tối thiểu, Ấn Độ chứng minh phát triển kinh tế không bắt buộc phải có một cơ chế độc đảng chuyên quyền. Về Trung Quốc, rất gần gũi Việt Nam chẳng chỉ về địa lư mà c̣n hầu như toàn bộ ư thức hệ và cơ cấu tổ chức, tôi xin phép được nói ở phần sau.

 

[3]Trích Huy Đức (Yahoo 3600-Osin’s Blog, 2-04-2008): Thủ tướng vừa mới yêu cầu các DNNN tái cấu trúc, phải tập trung cho ngành nghề chính theo tỷ lệ 70-30. Quyết định này là cần thiết nhưng quá trễ. Thời gian qua, các tập đoàn, TCT đă tập trung quá lớn để “nhảy” vào chứng khoán, ngân hàng, địa ốc… Nhiều doanh nghiệp đă đánh mất vai tṛ “chủ đạo” khi tập trung rất ít cho ngành kinh doanh chính. Các chuyên gia ước tính, tỷ lệ thực tế là 30, cho ngành kinh doanh chính; 70, cho chứng khoán, ngân hàng, địa ốc. Các DNNN đang chiếm giữ 80% lượng vốn tín dụng của các ngân hàng trong nước; 70% vốn vay nước ngoài, trong khi chỉ tạo ra 40% GDP, chưa kể trong 40% GDP ấy, chủ yếu có được nhờ đặc quyền khai thác các tài nguyên quốc gia. Có những tập đoàn như Vinashin, nói là phát triển công nghiệp đóng tàu, nhưng đất đai có đủ “trên rừng, dưới biển”. Chưa kể, vô số công ty to nhỏ, kinh doanh “thượng vàng hạ cám”, khai thác “thương hiệu” Vinashin. Năm 2007, tập đoàn này được ưu tiên cho sử dụng 750 triệu USD từ nguồn tiền bán trái phiếu Chính phủ. Gần đây, Vinashin lại được bảo lănh để vay 2 tỷ USD từ Deutsch bank. Thật khó biết hiệu quả của những đồng vốn ấy, v́ không có các số liệu tài chính minh bạch. Vinashin chỉ là một ví dụ, phần lớn nguốn vốn của xă hội đang tập trung vào khu vực này. Trong khi, như thừa nhận của một vị thứ trưởng tại phiên làm việc chiều 1-04, ngay cả các cơ quan Chính phủ cũng không thể tiếp cận các dữ liệu. Không có cơ chế giám sát hữu hiệu, không có kiểm toán, trong khi các tập đoàn, TCT đang là “nhóm đặc quyền” có ảnh hưởng nhất tới việc hoạch định chính sách quốc gia.

Khi xây dựng các TCT lớn, nhà nước kỳ vọng rất nhiều vào khả năng cạnh tranh trên thị trường bên ngoài. Quan sát hoạt động của hai TCT Lương thực (miền Bắc và miền Nam), mới thấy, người nông dân, thay v́ được giúp đỡ, đă phải gánh chịu rất nhiều hậu quả. Là những doanh nghiệp nắm giữ gần như tuyệt đối lượng gạo xuất khẩu của một quốc gia đứng thứ 2 trên thế giới, 2 TCT này vẫn không dự báo được thị trường. Đầu năm, họ “thắng” thầu xuất 700.000 tấn gạo sang Philippine chỉ ở mức 350 USD/tấn. Để đến khi giao hàng, giá gạo thế giới lên đến mức 500 đến 600 USD/tấn. Chính nông dân và các doanh nghiệp cung ứng phải chịu những thua thiệt đó. Một nhà nghiên cứu có uy tín ở Đồng bằng Sông Cửu Long gọi cách làm nói trên của hai DNNN độc quyền tự nhiên này là “cai đầu dài”.

 

[4] Xin tham khảo Nam Dao, ’Vốn xă hội, nguy cơ phá sản?’’, Talawas, 11-12-2007; và những bài cùng chủ đề của Thái Kim Lan, Nguyễn Huệ Chi và Nguyễn Xuân Lộc.

 

[5] Xin tham khảo những bài viết của Linh mục Matino o web hayyeuthuongnhau. (Trang web này hiện đă bị thay đổi - Chú thích ngày 12-4-2008)

 

[6] Trích bài trong cước chú 4: “Nông dân chiếm gần 80% dân số, mất đất, giá nông sản thấp, th́… dễ thôi, c̣n trẻ cứ lên thành thị, trai làm công nhân (nếu t́m ra việc), gái làm ô-sin, hoặc lấy chồng người Đài Loan, người Đại Hàn, người Mă, người Phi, thậm chí cà người Trung Quốc vĩ đại sát nách cũng c̣n nghèo nhưng khá hơn ta một chút. Hiện, đàn bà Việt Nam lấy chồng Đài Loan khoảng từ 120 đến 140 ngàn, phần lớn những đấng phu quân là nông dân, tŕnh độ văn hóa cấp 1 hay 2, có người bị liệt, bị tâm thần, góa hoặc ly dị. Họ chi khoảng 5000 đô cho đám môi giới lo từ xem mặt đến visa xuất cảnh. Gia đ́nh "cô dâu’’, thường là làm áp lực bắt con đi lấy chồng ngoại, trả cho dịch vụ từ 500 đến 1000 đô. Cưới hỏi xong, nhà gái bội thu được đâu 4, 5 trăm đô, và đó là giá bán đứt con, với hy vọng lâu lâu được con trợ cấp cho một, hai trăm đô. Hàng chục cho đến hàng trăm cô gái tuổi từ 17 đến 30 xếp hàng cho dăm bẩy đấng phu quân tương lai chọn lựa. Đây là nạn buôn phụ nữ. Buôn được v́ người Việt Nam đói nghèo khốn khổ đến độ cha mẹ bán con, dẫu biết con ḿnh có thể sẽ là một loại nô lệ. T́nh dục, đă đành. Nô lệ lao động, dĩ nhiên. Số phận những cô dâu Việt được nhà báo Trang Hạ đưa lên Yahoo 3600 - trangha’s Blog với loạt bài "Cô dâu Việt trên đất Đài". Và đặc biệt những h́nh ảnh từ xem mặt đến làm visa của dịch vụ "sớm quen chiều cưới’’ này trong phóng sự ảnh "Những tâm trạng Đài Loan" là những h́nh ảnh mủi ḷng.

 

[7] Trích Nam Dao, Bây giờ tôi hát lạc quan đen HLVHVN, 03-2008: ,“Trong khi đó, xă hội thực bên ngoài đầy ‘’chất’’ để viết: sống lại, ông Vũ Trọng Phụng chắc đẻ ra con cháu đầy đàn cho Xuân tóc đỏ, ông Nam Cao hẳn cũng có dịp đưa rất nhiều Thị Nở vào nhà hộ sinh, và Chí Phèo có thể lái X́-ke mà tiến thân lên làm đến Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương kiêm Tư lệnh Bộ Đội Biên Pḥng… Nhưng không, văn học mười năm trở lại đây không ‘’dính dáng’’ đến xă hội đời thường, chẳng đụng chạm đến hàng trăm dân oan đi khiếu kiện nhà đất, đến hàng chục ngàn công nhân đ́nh công… Không, văn chương của chúng ta trong nước ‘’sạch‘’, không ô nhiễm chất xă hội (trừ những phóng sự của Trang Hạ), không vạch lưng cho người xem, tức là ngoan, hiền, chẳng để các anh trong Ban Văn hóa-Tư tưởng phiền ḷng.

 

[8] Tham khảo một bài tổng hợp về đất nước sau năm 1975 của Nam Dao: ‘’Việt Nam, con người từ những bóng ma’’, talawas, 2005, hoặc http://amvc.free.fr. Bài này cũng được in lại trong tập bút kư ‘’Những con người, những bóng ma’’, NXB Văn Mới, California, 2006.

 

[9] Tết Mậu Tí vừa qua, người ta tổ chức diễn binh diễu hành mừng ngày chiến thắng ở Huế, đạp lên vết thương c̣n mở miệng của cuộc thảm sát Tết Mậu Thân với ít là 5000 thường dân chôn thây trong những hầm tập thể. Nạn nhân, là con cháu những người đă chết, sẽ nghĩ ǵ? Trích Đinh Quang Anh Thái Phỏng Vấn Nhà Văn Nhă Ca, Việt Báo, Thứ Bảy, 3/29/2008: ‘’… Bốn mươi năm sau vụ tàn sát Huế Tết Mậu Thân, thay v́ nói lời "xin lỗi" theo cách mà người trong nước hiện nay gọi là "văn minh dân sự", nhà nước cộng sản diễn hành mừng chiến thắng trên mồ mả của những người chết oan. Trấn áp, bịt miệng không chỉ dân chúng mà cả những đồng bọn của họ từng nói về sự thật Tết Mậu Thân…Tội ác tàn sát Huế Tết Mậu đă hằn rơ trong ruột gan cộng sản. Họ muốn bịt miệng người sống, xoá bỏ người chết để có thể chạy tội. Trước Tết Mậu Tí, nhà cầm quyền Việt Nam đă ra đủ thứ đ̣n dỗ dành, đe doạ để chôn sống vĩnh viễn hồ sơ thảm sát Tết Mậu Thân. Mọi đ̣n phép khủng bố thời này đă chẳng làm ai sợ. Tại Huế, chùa Báo Quốc, chùa Linh Quang, chùa Phước Thành… vẫn công khai tưởng niệm cầu siêu cho những nạn nhân bị thảm sát Tết Mậu Thân. Ngay sáng mùng một tết Mậu Tí, trên tường thành khu mộ ba tầng chôn 428 hài cốt nạn nhân bị tàn sát tại Khe Đá Mài vẫn xuất hiện hàng chữ "40 NĂM BỊ VIỆT CỘNG SÁT HẠI DĂ MAN". Đây là hàng chữ được người Huế viết lên tường ngay trong đêm Giao Thừa.’’
 
 

[10] Để thư giăn, xin trích báo Tiền Phong ngày 16-6-2007 đă viết ra những điều xót xa ấy trong bài “Những bài thi lịch sử cười ra nước mắt”.
“Ở câu 1, đề II, phần lịch sử Việt Nam, khi tŕnh bày t́nh h́nh nước ta sau năm 1945, nhiều thí sinh viết: "Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thành công th́ Việt Nam dân chủ cộng ḥa gặp khó khăn từ nhiều mặt; (…) quân Anh vào Việt Nam với danh nghĩa là giải tán quân Pháp… quân Tưởng tiến vào miền Nam Việt Nam (…) Tưởng là một tên Việt gian bán nước (…) sau Cách mạng Tháng Tám, các khu công nghiệp bị tàn phá nặng nề…".

 

“Khi nói về tội ác của Mỹ - Diệm, có thí sinh viết: "Mỹ - Diệm đă đàn áp nhân dân, lôi kéo người dân vào nhà chứa và đưa họ vào con đường nghiện ngập… Mở các lớp học, bắt người dân không học về lịch sử Việt Nam mà phải học về những ǵ mà các giáo sư Mỹ dạy".

 

Viết về ư nghĩa lịch sử của Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, thí sinh viết: “Mùa xuân 1974-1975, quân và dân ta không chịu được cảnh đàn áp của thực dân Pháp… Sau Lê Lai, Lê Lợi không chịu được cảnh ḷng mang dạ sói của thực dân Pháp, đă nổi dậy đấu tranh năm 1975… nổ ra ḍng dă 2 ngày 1 đêm và quân ta đă đánh đuổi thực dân Pháp… Mùa xuân năm 1975 máu chảy thành sông, người chết th́ nhiều. Sau Lê Lợi lên làm vua được vài năm là chết”.


“Cũng câu hỏi về chiến dịch Hồ Chí Minh, có thí sinh trả lời: "Đêm 30/12, rạng sáng 1/1/1975, nhân lúc quân lính Mỹ đang say sưa, quân ta tấn công. Tiếng súng đầu tiên nổ lên, kháng chiến bắt đầu. Giặc lúng túng chống trả không kịp, bỏ cả đồn bốt chạy sang Trung Quốc".


“Một thí sinh khác lại viết: "Chiến dịch Hồ Chí Minh 1970, quân ta tiến vào Him Lam, Bản Kéo, lần lượt giành các đồi A1, C1, D, E… Hai bên chiến đấu giằng co quyết liệt và cuối cùng ta đă giành thắng lợi buộc Mỹ phải kư hiệp định Paris năm 1972".