SƠ ĐƯỜNG ( 618-713)
... là thời thái b́nh an lạc. V́ thế, xuất hiện phái Ỷ Mỹ diễm lệ với Vương Bột, Lư Chiếu Lâm, Lạc Tân Vương... Đến Trần Tử Ngang, ông than ‘‘vẻ mỹ lệ th́ nhiều nhưng hứng kư thác th́ ít’’ rồi khai sinh ra phái thơ Phản Động, cùng Trương Cửu Linh chú trọng đến cảm ngộ hơn là văn từ.
Lư Chiếu Lâm (641-680)
là một trong tứ kiệt thời sơ Đường, mắc bệnh, cáo quan về ở núi Thái Bạch, rồi bị liệt sau tự trầm ḿnh chết ở sông Dĩnh.
Khúc Giang Hoa
Phù hương nhiễu khúc ngạn Viên ảnh phú hoa tŕ Thường khủng thu phong tảo Phiêu linh quân bất tri
|
Hương vờn trên bờ nước Bóng rơi phủ mặt ao Sợ gió thu buổi sớm Trôi giạt biết nơi nao
|
Bờ nước hương thoảng lại Bóng rơi trên mặt ao Long lo gió thu đến Chẳng biết giạt nơi nào
|
Thượng Quan Nghị ( ?- 646)
đỗ Tiến Sĩ, làm đến Đài Thị Lang, sau bị tịch thu gia sản, tù rồi chết trong ngục.
Lạc Đê Hiểu Hành
Mạch mạch quảng xuyên lưu Khu mă lịch trường châu Thước phi sơn nguyệt thự Thuyền táo dă phong thu
|
Sáng trên đê sông Lạc
Cuồn cuộn sông nước chảy Ruổi ngựa triền sông dài Chim vèo ngang, trăng sáng Gió thu tiếng ve say
|
Sông cuồng xô nướcchảy Ngựa lồng nát triền sông Chim vèo ngang, trăng sáng Ve kêu sợ gió đông
|
Vương Bột (647-675)
sáu tuổi đă nổi tiếng thơ hay, nhất là bài Đằng Vương Các tài hoa. Cuộc đời ngắn ngủi, ông để lại một tập thơ trong có nhiều bài nói lên ḷng bất măn trước thời cuộc.
Tư Qui
Trường giang bi dĩ trệ Vạn lư niệm tương qui Huống phục cao phong văn Sơn sơn hoàng diệp phi
|
Đi về
Trường giang buồn suôi nước Vạn dậm ngỡ quay về Gió cao c̣n lồng lộng Vàng núi lá bay đi
|
Sông dài con nước chảy vạn dậm thôi về đi Gió núi cao lồng lộng Lá vàng có tiếc chi
|
Trần Tử Ngang (651-702)
đỗ tiến sĩ năm 20 tuổi, làm quan dưới tjhời Vơ Hậu, bị tù rồi chết trong ngục năm 42 tuổi. Ông có vai tṛ lớn trong việc cách tân thi phong đời Đường.
Đăng U Châu đài ca
Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc sảng nhiên nhi thế hạ
|
Hát trên đài U Châu
Xưa không thấy người xưa Sau không thấy người sau Đất trời mang mang từ ấy Một minh lệ xót sa đau |
Lạc Tân Vương (?-680)
Hay thơ từ khi năm tuổi, ra làm quan dưới thời Cao Tông, từ quan rồi tham gia cuộc biến loạn chống Vơ Hậu nhưng thất bại. Đây là bài thơ tù sớm nhất trong văn ho6c Trung Quốc
Tại Ngục Vịnh Thuyền
Tây lục thuyền thanh xướng Nam quan khách tứ thâm Bất kham huyền mấn ảnh Lại đối bạch đầu ngâm Lộ trọng phi nan tiến Phong đa hưởng dị trầm Vô nhân tín cao khiết Thùy vị biểu dư tâm |
Vịnh con ve trong ngục
Mái Tây nghe ve kêu Cửa Nam ngẫm trăm điều Bóng đêm kham chẳng được Tóc trắng đành tỉ tê Sương nặng khôn bay nhảy Gió đưa tiếng vọng về Ai người trong trắng nhỉ Để tỏ nỗi ủ ê
|
Dịch Thủy Tống Biệt
Thử địa biệt Yên Đan Tráng sĩ phát xung quan Tích nhân thời dĩ một Kim nhật thủy do hàn
|
Chia tay sông Dịch
Tráng sĩ mắt trợn ngược & Đất này biệt Yên Đan Ngày xưa, người xưa khuất Sông cứ lạnh miên man |
Vương Tích (588-644)
... mong dấn thân nhưng không được dùng trong quan trường, uất hận về uống rượu, sau theo tư tưởng vô vi Lăo-Trang
Quá Tửu Gia
Thử nhật trường hôn ẩm Phi quan dưỡng tính linh Nhăn khan nhân tận túy Hà nhẫn độc vi tinh |
Qua quán rượu
Ngày dài rượu cứ uống Xá ǵ chuyện tử sinh Trăm họ say túy lúy Nỡ sao tỉnh một ḿnh
|
Vi Thừa Khánh (?-707)
Làm quan chức Phụng Lang Thị Các, bị biếm, sau được phục hồi và phong tước.
Nam Hành biệt đệ
Đạm đạm trường giang thủy Du du viễn khách t́nh Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh
|
Đi Nam tiễn bạn
Sông dài con nước chảy Viễn khách mang mang t́nh Hoa rơi dường cũng hận Dưới đất nằm lặng thinh |
Thẩm Thuyên Kỳ (?-713)
Cùng Tống Chi Vân, ông là người mở đường cho thể luật thi.
Tạp Thi
Văn đạo Hoàng Long thú Tần niên bất giải b́nh Khả liên khuê lư nguyệt Trường tại Hán gia doanh Thiếu phụ kim xuân ư Lương nhân tạc dạ t́nh Thùy năng tương kỳ cổ Nhất vị thủ Long thành
|
Tạp Thi
Đồn trú miền Hoàng Long Dăi dầu thân lính thú Trăng soi, soi khuê các Trăng ṿi vơi, trại quân Ḷng thiếu phụ giấc xuân héo hon mùa chinh chiến Trống cờ, xin gióng tiếng thành Long ấy, cứ thu
|
Tống Chi Vân (?-713)
Đề Đại-Dữu Lĩnh Bắc Dịch
Dương nguyệt nam phi nhạn Truyền vân chí thử hồi Ngă hành thù vị dĩ Hà nhật phục qui lai
Giang tĩnh triều sơ lạc Lâm hôn chướng bất khai Minh triều vọng hương xứ Ưng kiến lũng đầu mai
|
Đề tại trạm Bắc núi Dữu
Về Nam, cánh chim nhạn tháng mười là đến nơi Chân người sao bước măi biết ngày nào về suôi
Sóng triều êm êm xuống Chướng khí rừng mù hơi Sáng ra, quê cũ ngóng thấy cành mai, cuối trời. |
Trương Cửu Linh(673-740)
Làm quan đến chức Tể Tướng thời Khai Nguyên. Ông góp phần để thi ca thoát khỏi ảnh hưởng Tề, Lương và mở đường cho Lư Bạch, Đỗ Phủ...
Vọng nguyệt Hoài Viễn
Hải thượng sinh minh nguyệt Thiên thai cộng thử th́ T́nh nhân oán dao dạ Cánh tịch khỏi tương ti Diệt chúc liên quang măn Phi y giác lộ ti Bất kham danh thủ tặng Hoàn tẩm mộng giai kỳ
|
Ngắm Trăng nhớ người xa
Trăng sáng nhô trên biển Đất như nhập vào trời Người yêu ơi, đêm dài để nhớ, nhớ khôn nguôi Nến dập, cho trăng xuống Áo khoác ướt sương rơi X̣e tay, trăng chẳng đậu Đề đêm mơ tặng người
|
Hạ Trí Chương (659-744)
Là một trong bốn nhà thơ nỗi tiếng đất Ngô Trung, lang bạt từ thuở thiếu thời.
Hồi Hương ngẫu thư
1 Thiếu tiểu ly gia lăo đại hồi Hương âm vô cải mấn mao thôi Nhi đồng tương kiến bất tương đắc Tiếu vấn khách ṭng hà xứ lai 2 Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa Cận lai nhân sự bán tiêu ma Duy hữu môn tiền Kính hồ thủy Xuân phong bất cải hựu thờ ba |
Về làng ngẫu hứng
1 Lúc trẻ ra đi, già trở về Tóc già đă rụng, giọng vẫn quê Trẻ con nay gặp đâu có biết Nói cười ‘‘Thưa, khách chốn nao về ?’’
2
Cách biệt quê nhà năm tháng qua Người xưa c̣n, hay đă tiêu ma Duy này hồ Kính đây trước cửa Lăn tăn sóng gợn gió xuân qua
|