Lư Bạch (701-762)
Tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, ngườiMiên Châu, Tứ Xuyên. Tính t́nh hào phóng, thuở nhỏ học kiếm, lớn lên đi chơi khắp nơi, đến đâu cũng đề thơ. Hơn bốn mươi tuổi, vào Kinh làm trong Hàn Lâm viện, nhưng chưa được ba năm lại từ quan, tiếp tục ngao du. Trong loạn An Lộc Sơn, Lư Bạch theo Lư Lân là kẻ tranh ngôi, nhưng thất bại. Lư Bạch bị đầy đi Quí Châu, nhưng nửa đường được ân xá, sau chết ở Dương Đồ trên đường về. Thơ ông phong phú, tài hoa, và đầy sáng tạo. Đề tài nào ông cũng có những bài kiệt xuất, được người đời gọi là nhà Thơ Tiên.
Lư Bạch - 1
Tĩnh dạ từ Sàng tiền khán nguyệt quang Nghi thị địa thương sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương
Oán t́nh Mỹ nhân quyển châu liêm Thâm tọa tần nga mi Đăn kiến lệ ngân thấp Bất tri quân hận thùy
Lục thủy khúc Lục thủy minh thư nguyệt Nam hồ thái bạch tần Hà hoa kiều dục ngữ Sầu sát đăng chu nhân
Ngọc giai oán Ngọc giai sinh bạch lộ Dạ cửu xâm la miệt Khước hạ thủy tinh liêm Lung linh vọng thu nguyệt
Sơn trung vấn đáp Vân dư hà sực thê bích sơn Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn Ào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ Biệt hữu thiên địa phi nhân gian
Mạch Thượng tặng mỹ nhân Tuấn mă kiêu hành đạp lạc hoa Thùy tiên trực phất ngũ vân xa Mỷ nhân nhất tiếu niêm châu bạc Dao chỉ hồng lâu thị thiếp gia
Tống Mạnh Hạo Nhiên Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Cơ phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế hưu
Tống Hữu Nhân Thanh sơn hoành bắc quách Bạch thủy nhiêu đông thành Thử địa nhất vi biệt Cô bồng vạn lư chinh Phù vân du tử ư Lạc nhật cố nhân t́nh Huy thủ tự tư khứ Tiêu tiêu ban mă minh
Thu phố ca chi nhất Bạch phát tam thiên trượng Duyên trường tựa cố sầu Bất tri minh kính lư Hà sứ đắc thu sương
Thính thục tăng tuấn đàn cầm Thục tăng bảo lục ư Tây hạ nga mi phong Vị ngă nhất huy thủ Như thính vạn hắc tùng Khách tâm tẩy lưu thủy Du hưởng nhập sơn chung
Đề Phong Đỉnh Tự Dạ túc Phong Đỉnh tự Cử thủ môn tinh thần Bất cảm cao thanh ngữ Khủng kinh thiên thượng nhân
|
Đêm lặng Đầu giường ánh trăng chếch Nh́n ngỡ đất mờ sương Ngửng mặt t́m trăng sáng Cúi đầu thương cố hương
Oán t́nh Người đẹp cuốn rèm châu Lặng ngồi nhíu đôi mày Ngắn dài đôi hàng lệ Ḷng nào biết hận ai
Khúc hát nước xanh Nước xanh trăng thu đậu Hồ nam trắng sắc rau Bông sen dường muốn hỏi Trên thuyền bỗng ḷng đau
Oán nơi thềm ngọc Sương trắng vương thềm ngọc Chân tất đầm ướt sương Rủ bức màn trong suốt Lung linh ánh trăng buông
Hỏi đáp trong núi Hỏi sao lần lữa với núi xanh Lặng im cười nhẹ tự tâm nhàn Hoa đào lơ lửng trôi ḍng nước Đất trời một cơi chẳng nhân gian
Tặng người đẹp Ngựa đi vó đạp nhành hoa rụng Buông roi đụng khẽ cửa xe hoa Vén rèm người đẹp cười, tay chỉ Lầu hồng nhà thiếp ở không xa
Tiễn Mạnh Hạo Nhiên Cố nhân đi từ Hoàng Hạc Lâu Tháng ba hoa khói đến Dương Châu Bóng lẻ xa xanh trời vô tận Sông Trường mây đổ nước tuôn mau
Đưa bạn Núi xanh chắn ải bắc Sông bạc quấn đông thành Nơi này thôi giă biệt Cỏ bồng bay lênh đênh Mây bay trôi ư bạn Ngày tàn t́nh cố nhân Vẫy tay từ đây nhé Ĺa đàn ngựa hí rân
Hát cho mùa vào thu Tóc trắng dài ba trượng Dài tựa nỗi sầu vương Nh́n gương soi chẳng biết Cớ nào thu đầy sương
Nhà sư gảy đàn Thiền sư ôm cây đàn Từ phía tây xuống núi Tặng ta gảy một tiếng Suối ngân ngàn thông reo Ḷng ta đà rửa sạch Chuông vẳng dạ trong veo
Đề chùa Phong Đỉnh Đêm trú chùa Phong Đỉnh Giơ tay ve vuốt sao Chớ đừng to tiếng nhé Lỡ đánh thức Thiên Tào |