6.05.2009
BBT Da màu phỏng vấn nhà văn Nam Dao
Phùng Nguyễn thực hiện
Phùng Nguyễn:
Việc Trăng Nguyên Sơ bị thu hồi chỉ
sau một thời gian ngắn được bày bán ở
các hiệu sách có làm anh ngạc nhiên hay không? Hoặc
việc Trăng Nguyên Sơ được phép xuất
bản trước đó có là một điều đáng
ngạc nhiên? Có phải văn nghệ sĩ là đám ngây
thơ, luôn có khả năng ngạc nhiên về những
điều không đáng/nên ngạc nhiên?
Nam Dao:
Khi
gửi Trăng Nguyên Sơ về, tôi chỉ mong có
phản hồi từ một số nhà văn ở
Việt Nam mà tôi trân trọng. Đùng một cái, hai nhà
văn đưa đến cùng một nhà xuất bản xin
giấy phép. Một với cái tên Cơi T́nh (tôi
định chọn ban đầu), và một với cái tên Trăng
Nguyên Sơ. Tác phẩm chỉ một, nhưng có
đến 2 giấy phép với một nhà xuất bản!
Thú vị, nhưng băn khoăn: thà đừng in,
nhưng giữ được cái thanh khí tương
đồng giữa những người cầm bút. Tôi
thư về. Hai nhà văn giới thiệu tiểu
thuyết của tôi với nxb Lao Động đồng
thuận, và Trăng Nguyên Sơ thụ thai từ cái
“mối t́nh” tay ba, kể tác giả là một. Thời gian
tôi gửi Trăng Nguyên Sơ về là thời gian
chúng ta khởi động chủ đề hội
nhập trên diễn đàn Hội Luận Văn Học,
trong đó vấn đề hội nhập giữa những
nhà văn trong và ngoài nước nổi cộm. Ngay sau
đó là vụ tập Trần Dần-Thơ nổ ra,
cũng ngưng phát hành, thu hồi… và sau th́ những
người cầm quyền “lơ” đi sau khi trí thức
trong nước và hải ngoại làm kiến nghị
phản ứng. Như vậy, lẽ ra là đánh trong
“trứng nước” th́ đỡ rắc rối hơn là
thu hồi sau khi một tác phẩm được in nên Trăng
Nguyên Sơ có phép xuất bản đúng là một
điều đáng ngạc nhiên. Và khi những kẻ
cầm quyền ra lệnh ngưng phát hành Trăng Nguyên
Sơ th́ tôi lại càng ngạc nhiên, chẳng phải v́
tôi không hiểu mà là v́ họ chẳng rút được bài
học nào từ chuyện cấm Chuyện kể năm
2000 khi xưa, rồi Trần Dần-Thơ năm
ngoái. Tôi không dám nói ǵ về những văn nghệ sĩ
khác, nhưng tôi biết riêng tôi, tôi ngây thơ, và sẽ
tiếp tục ngây thơ tin vào sự khả thi cũa
những điều tốt đẹp trên đời. Tôi
sẽ tiếp tục gửi công việc văn
chương của ḿnh về cội nguồn ngôn ngữ
Việt Nam, và chắc c̣n ngạc nhiên dài dài.
Phùng Nguyễn
Gần đây, trong một bài viết trên mục “Bàn tṛn
văn nghệ” của website “Hội Nhà Văn Việt Nam,”
tác giả Nguyễn Hoàn đă đề nghị Cục
Xuất Bản thuộc bộ Thông Tin và Truyền Thông
(Việt Nam) làm áp lực với nhà xuất bản Lao
Động để hủy bỏ toàn bộ phần viết
về “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam” trong
tập biên khảo Trịnh Công Sơn Vết Chân Dă Tràng
của nhà biên khảo Ban Mai. Anh nghĩ sao về thái
độ “tin cậy” của ông Nguyễn Hoàn dành cho
chế độ kiểm duyệt của nhà cầm
quyền VN?
Nam Dao:
Nếu tác giả Nguyễn Hoàn chỉ là công cụ nhắm
một mục đích chính trị nào đó, ông ta viết
thế nhằm cho phép những người cầm
quyền “tư tưởng” la lối, đấy “nhân dân”
nghĩ thế đấy, phát biểu thế đấy,
và để ‘’ phục vụ nhân dân’’ chúng tôi phải
đục, khoét, tẩy, xóa…những văn bản này, văn
bản kia… Trường hợp Nguyễn Hoàn-công cụ
chẳng có ǵ để bàn, ngoài cái thủ pháp “đấu
tố” vẫn c̣n mưng mủ trong tâm thức mấy ông
cán bộ. Ở mức vô văn hóa, thậm chí mọi
rợ, người ta c̣n sai đầu gấu ném cứt
vào nhà bà Trần Khải Thanh Thủy mới đáng kinh
tởm.
Nếu tác giả Nguyễn Hoàn không hành xử như một công cụ của quyền lực th́ tôi nghĩ ông ta có cái quyền của người đọc. Và xin nhắc dù tôi có bất đồng ư kiến với bạn, nhưng tôi sẽ cực lực tranh đấu chống những kẻ t́m cách bịt miệng không để bạn nói.
Tôi vào website của Hội Nhà Văn và nay trích lời kết của Nguyễn Hoàn:
‘’ Có nhận định đúng về chiến tranh Việt Nam, về hoàn cảnh xă hội, về không khí thời đại, về sự giáo dục cá nhân…đă ảnh hưởng, tác động đến Trịnh Công Sơn, có nhận định đúng về chỗ đứng phản chiến của Trịnh Công Sơn mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về giá trị nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn cũng như những đóng góp của Trịnh Công Sơn đối với phong trào yêu nước ở đô thị miền Nam, tránh sa vào đánh giá sai lệch, phiến diện, thiếu sót, thậm chí áp đặt khiên cưỡng cả những quan điểm vay mượn xa rời với thực tiễn và chân lư lịch sử. V́ lẽ đó, chúng tôi đề nghị Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu NXB Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội và tác giả Ban Mai huỷ bỏ toàn bộ phần viết về “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam” trong cuốn sách “Trịnh Công Sơn vết chân dă tràng” hoặc viết lại theo quan điểm đúng đắn th́ cuốn sách này mới được phép lưu hành, tránh gây nên những tác hại và ngộ nhận đáng tiếc.’’
Bài viết này không có phản hồi, b́nh luận nào. Tôi mong rằng ư kiến của Nguyễn Hoàn không phản ánh ư kiến của Hội Nhà Văn. Chỉ trong một đoạn ngắn trích trên, những khái niệm làm sởn gai ốc những ai có chút kiến thức như thực tiễn và chân lư lịch sử (tôi gạch dưới) được xử dụng để dẫn tới đề nghị Ban Mai viết lại theo quan điểm đúng đắn (tôi cũng gạch dưới) khiến tôi mang cảm giác bất an cho nhà xuất bản Lao Động và Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây (in Trần Dần-Thơ, in Trăng Nguyên Sơ, rồi in biên khảo của Ban Mai). Ai biết ǵ về những thực tiễn (và nhất là) chân lư lịch sử? Khi viết tiểu thuyết lịch sử, tôi cất công đọc những nghiên cứu từ nhiều nguồn, để khỏi đọc chỉ bằng một mắt, mắt của những kẻ chiến thắng cho ḿnh cái quyền viết sử để xảo dựng quan điểm đúng đắn (sic) của quyền lực.
Phùng Nguyễn:
Theo anh, thái độ như của Nguyễn Hoàn có
những tác động nào lên quyền “tự do ngôn
luận” của người dân, đặc biệt của
giới làm văn nghệ trong nước? Anh có cho rằng
chấp nhận và dựa dẫm vào quyền kiểm soát
tư tưởng chỉ có thể đưa đến
sự kéo dài của chế độ kiểm duyệt?
Nam Dao:
Giới làm văn nghệ rất phức tạp. Theo cách
tổ chức Leninít, có những hội văn nghệ
địa phương (huyện, tỉnh, trung ương
(TU), tức Hội Nhà Văn (HNV) cho những người
cầm bút ), và thăng tiến là trở thành hội viên
HNV. Hội viên HNV có nhiều loại. Thực tài, cũng
có, thường là khôn ngoan, biết tránh né, nhưng không ‘’
pḥ chính thống’’ lộ liễu, thi thoảng cũng ‘’ có
quan điểm riêng’’ và quấy phá kiểu vè ‘’ HNV nh́n
từ gần’’ nhại bài ‘’ Đất Nước nh́n
từ xa’’ của nhà thơ Nguyễn Duy. Thực tài,
hiếm đấy (tôi có thể kể tên dăm vị,
nhưng thôi, đừng bắt tôi kể để mang
tiếng thấy sang bắt quàng làm họ), và họ
thừa biết tṛ ‘’ bàn tṛn văn nghệ’’ mà chỉ
độc một người phán, không ai phản hồi,
khiến khi nghĩ 2 lần (2 thôi) th́ có thể HNV chuyển
tải một thứ mệnh lệnh và, rất dửng
dưng (đây là giả thiết tốt đẹp
nhất cho HNV). C̣n một phần trong số trên
dưới 800 vị hội viên th́ có người là nhân
viên lănh lương của những ty văn hóa Huyện,
Tỉnh …được TU chú ư. Họ là cây đa cây
đề đầu làng cuối chợ, là ‘’ vĩ nhân
tỉnh lẻ’’ theo bà Dương Thu Hương. Họ
đợi đến dịp Tết, Hội Hè….th́ viết
đếm trang ra tiền ( có giải thưởng Hồ
Chí Minh, giá là 3-5 triệu đồng VN năm 2005-6, không tên
tuổi, chỉ 1-2 triệu ), và khi TU họp th́ cũng
được đến Thành Phố ‘’ lân la ‘’ và lê la
để tiến thân trong trường chữ
nghĩa…Loại ’’ làm’’ văn nghệ này chỉ có khả
năng lập lại lời lẽ chính thống, hoặc
viết nhưng chẳng chuyển tải điều ǵ
ngoài dăm cái hào nhoáng của ngôn ngữ rỗng nghĩa,
và để họ tự do ngôn luận th́ họ chỉ
bới lông t́m vết hạ nhục lẫn nhau, tranh ăn
tranh nói, tranh ….cái danh hăo ‘’ làm mơ ‘’ trong thời đại
hội nhập toàn cầu mà địa phương họ
chỉ là một cái chấm li ti (nh́n không thấy) trên
địa đồ. Với họ, NH cũng chẳng tác
động ǵ. Chai sạn cả rồi mà! Ngoài hai thái
cực vừa kể, là những người ‘’ thầm
lặng’’. Số đông này chẳng ngây thơ, mà cũng
không muốn làm anh hùng. Họ thấm mệt, và chờ
đợi. Không phải kiểu chờ đợi phút tàn
đời rồi viết hồi kư mong ‘’ ăn cả
đến đời sau’’ của những vị rách
trời rơi xuống như … Nguyễn Khải, như
…thôi, …vân vân. Họ chờ đợi ǵ? Kiểu chờ
Godot chăng?
Phần hai của câu hỏi, hỏi là tự trả lời rồi. Kiểm duyệt nhằm hạn chế quyền ngôn luận, và làm thế, là bó bột (thậm chí tước đoạt) khả năng tư duy tự do cuả toàn xă hội. Phương Đông dưới ‘’ thần’’ quyền Khổng-Mạnh, và ngay ở Việt Nam ta, xưa chỉ phạm húy thôi là đủ tù tội, lắm khi chết, v́ chạm đến Vua, gia đ́nh nội ngoại Vua, vợ Vua, gia đ́nh vợ Vua…Thế quyền biết ( hoặc hy vọng) sẽ vững (một cách nói) hơn nếu mang dáng dấp thần quyền, uy hiển, bí mật ( cái này th́ như kiểu ‘’ hội kín’’ thôi). Phương Tây (Âu Châu), trước thời Khai Sáng, quyền là thần quyền, cứ mở sách Thánh ra, và sách không nói là quả đất tṛn mà ông Bruno bảo thế th́ mang ông lên giàn hỏa thiêu, châm lửa đợi gió lên là…xong. Nhưng sau Bruno, có Galileo, bị giam lỏng đến cuối đời v́ theo lư thuyết Copernic. Rồi đến Descartes. Rồi Pascal, Darwin…cho đến những kỷ nguyên sau này, Âu Châu vùng ḿnh khởi động nền Khoa Học làm thay đổi 18 thế kỷ ù ĺ từ thời Công Nguyên. Hiện nay, khó mà phủ nhận chính sự tự do tư duy tư tưởng đă tạo ra tiến bộ, chẳng chỉ khoa học, mà c̣n cả trên những phương diện để con người có điều kiện nẩy nở phát triển một cách toàn diện. Không chỉ duy vật thực nghiệm và duy lư, con người thế kỷ 21 này vươn đến một nền văn hóa tổng hợp trong đó triết và đạo lư giữ một phần quan trọng. C̣n phương Đông? Ở Trung Quốc, lạng quạng từ ‘’ duy ư chí’’ điên khùng thời Maoít qua chủ nghĩa thực dụng của họ Đặng ‘’ cứ có thời cơ’’ là xông lên kiểu ‘’được việc’’ như con mèo lông trắng lông đen bắt chuột như mèo U.S.A, những lớp kế thừa quyền lực độc tôn hiện nay biết thắt cà-vạt, mặc áo vét, đang mang tham vọng ‘’ bá quyền’’, từng bước thay thế ông chủ Mỹ bị ung thư, phải dùng hoá trị liệu pháp (chimeotherapy) bằng cách bơm đô la cứu viện cho bọn tư bản tài phiệt tài chính ‘’ vô trách nhiệm’’ bày ra tṛ tích sản tẩm độc (toxic assets). Tóm gọn, Đông phương hồng (lời Mao chủ tịch, ảnh vẫn chưng ở cửa Thiên An) nay chạy theo phương Tây, nhưng than ôi, một phương Tây từng huy hoàng nhưng nay đă vào giai đoạn ung độc, chẳng chỉ kinh tế, mà c̣n rễu ră về tư tuởng, về triết lư, và nhất là về đạo lư. Việt Nam ḿnh, anh hùng thế, đánh đổ nào Thực Dân, nào Phong Kiến, nào Phát Xít, và cả Đế Quốc th́ sao? Rập khuôn Trung Quốc. Mà chẳng rập khuôn vàng thước ngọc, lại rập mẫu, thậm chí cường đại, những cái ǵ xấu nhất, lạc hậu nhất, vô nhân nhất. Nhưng cái xấu lên ngôi th́ cần bá quan tả hữu cầm roi chầu quất vào lớp người cùng khổ bị trị, gọi mỹ miều là nhân dân. Để họ tê liệt, phải gây mê bộ năo. Mê đi cùng U. Để U, chặn tư duy. Muốn chặn tư duy, cấm tự do ngôn luận. Mở ngoặc, xưa Hàn Dũ kêu, bất b́nh tắc minh, nghĩa là ḷng uất ức phải nói ra. Nay nói không được th́ sự bất b́nh kia thành khối U. Phương pháp trong trị liệu tạm thời khối U là Mê. Mê ǵ? Tiền, hoa hậu, bóng đá, tài tử Hồng Kông, Đài Loan, Đại Hàn…Rồi th́ x́ke, thuốc lắc, đĩ điếm, chém giết, chụp giựt…
Nhưng bạn sẽ hỏi, hoặc có bạn sẽ hỏi, ở đâu mà chẳng có ‘’ kiểm duyệt’’. Vâng, đúng thế. Âu Mỹ cũng kiểm duyệt như ai chứ đâu phải không? Đố bạn viết ǵ ủng hộ bọn khủng bố al-Quaeda mà được in ra ‘’ đàng hoàng’’ trên ( lấy một thí dụ) NY Times đấy! Cơ chế thị trường tự do cũng kiểm duyệt: cái chi in ra mà không bán được, hay làm mất khách, th́ giảm đi, thậm chí…dẹp. V́ thế, sự ‘’dung tục’’ lên ngôi, đám đông ( tức quần chúng chứ không phải Đảng ta) ‘’ chuyên chế ‘’, khách hàng là Vua. Ngôn luận và văn chương là một món hàng như mọi mặt hàng. Nhưng nói đến mặt hàng, ta không khỏi nghĩ đến những mặt hàng vi biệt (tôi liều dịch từ product differentiated trong kinh tế học) xếp từ cấp cao đến cấp thấp. Thí dụ, xe th́ có Ferrari, Mercedes, BMW…rồi nào Toyota, Honda, Fiat, GM….Cũng là xe, nhưng đẳng cấp khác nhau, và giá cũng khác nhau. Vậy th́ ‘’ làm theo khả năng, ăn theo thu nhập’’, ai cũng có gu và có món của ḿnh. Đúng qui luật, thị trường ‘’kiểm duyệt’’ nhưng không ra quyết nghị này nọ và cho phép người tiêu thụ lựa chọn những mặt hàng vi biệt, kể cả những mặt hàng văn hóa-thông tin, miễn sao người sản xuất nó làm ra lợi nhuận. Cơ chế thị trường văn hóa-thông tin như vậy là một hệ thống ‘’mở’’, có chỗ sả xú-báp, chứ không ‘’ngạt thở’’ khiến năo bộ bị tê liệt. Cho phép tôi mở ngoặc nói nôm na về định lư thứ hai trong Nhiệt động học: trong một hệ thống ‘’đóng’’, độ entropy tăng, mọi sự sẽ an bài nhưng không c̣n sức sống. Ta lấy một cái hộp đậy kín bưng, trong đó những phân tử không khí ban đầu chuyển động, phân bố lộn xộn, va chạm nhau, và sinh ra năng lượng. Hệ thống ‘’ đóng ‘’ là hệ thống không trao năng lượng với bên ngoài : sau một thời gian, những phân tử nói trên từ từ an vị, độ va chạm không c̣n, và năng lượng của hệ thống đóng cũng vậy, bị triệt tiêu. Áp dụng vào sinh học, định lư này dự báo sự chết. Áp dụng vào Tin học, định lư này cho rằng nếu đóng th́ hệ thống mất hết thông tin. Bây giờ, ta liều mạng bàn qua văn hóa, một hệ thống kín, tương tự, sẽ dẫn đến trạng thái vô văn hóa. Và kiểm duyệt là đóng cho kín một hệ thống văn hoá-thông tin. Xin thưa, với các bạn và những vị trách nhiệm chuyện Tư Tưởng Văn Hóa ở Việt Nam, rằng đóng kín như nói trên là bất khả thi. Có cố, th́ thành làm hề, trong một thế giới toàn cầu với kỹ nghệ thông tin hiện đại. Nhưng khi làm hề - với tṛ bôi mặt mầu xanh, bôi mũi mầu đỏ - th́ thực chất chỉ nhằm cướp chút ít thời gian để ăn của bẩn đến từ chuyện bán đất, bán biển, bán quặng bô-xít, và để cho hàng vạn công nhân TQ tràn qua biên giới chẳng chỉ ở Tây Nguyên mà nay lan đến Đồng Bằng sông Cửu Long. Đây là chuyện lớn, chẳng như cái chuyện cấm với ngưng phát hành Trăng Nguyên Sơ!
Như đă nói, kiểm duyệt có, và ở mọi nơi. Trong một nước tân tiến dân chủ, thị trường ‘’ kiểm duyệt ’’, và là một vấn đề kinh doanh. Trong những quốc gia mà ‘’ chính trị thống soái ’’, kiểm duyệt nằm trong tầm tay quyền lực. Thời thực dân Pháp, có những nhà xuất bản và có báo chí tư nhân. Kiểm duyệt đục bỏ th́ khi in họ để …( nhiều chấm) cảnh báo. Khi có vấn đề cộm, quyền lực vận dụng hệ thống Tư Pháp ( ṭa án). Thời Việt Nam Cộng Ḥa trong miền Nam cũng rập khuôn gần như vậy (xin tham khảo bài viết của nhà báo Đinh Từ Thức). Thời nay ở Việt Nam, kiểm duyệt ngặt nghèo hơn nhiều. Bung ra được vài năm sau Đổi Mới, văn chương lại đi vào con đường thui chột, bế tắc trong khi xă hội th́ đầy vấn nạn. Trong chiến tranh, Đế quốc ném bom không khiến được con người Việt Nam quay về thời Đồ Đá. Nhưng khi tái lập ḥa b́nh, chính những con người ấy ‘’rủ’’ nhau, ở mọi tầng lớp, ‘’tiến lên ‘’ thời Đồ Đểu.
Có người hỏi, thế th́ ta phải làm ǵ? Ông Bùi Minh Quốc (và nhiều người khác….) trong nước kêu rằng, thôi ngưng quốc doanh hóa quyền ngôn luận, phải nới ra để báo chí và xuất bản là một hoạt động tư nhân. Phạm luật, có luật pháp xét xử. Thưa đúng thế. Nhưng như vậy, Tư Pháp phải tách khỏi quyền lực chính trị, tức Đảng lănh đạo, điều 4 trong Hiến Pháp.
Cái mớ ḅng bong lại hiện h́nh, như trong một cơn mộng dữ!
Phùng Nguyễn:
Văn thư của cục trưởng cục xuất
bản Nguyễn Kiểm gởi nhà xuất bản Lao
Động đưa ra một số nhận xét mang tính
phê phán về nội dung của Trăng Nguyên Sơ. Theo anh,
có phải là ông Nguyễn Kiểm (và cái cục của ông)
đă xâm phạm lănh thổ của các nhà phê b́nh văn
học chuyên nghiệp hay không?
Nam Dao:
Trong một chế độ toàn trị, quyền lực
chính trị là quyền lực không biên giới. Vả
lại, các nhà phê b́nh văn học có tay nghề c̣n là
một lực lượng mỏng, và nhiều khi họ
cũng chưa xác định được biên giới
nghề nghiệp của họ.
Phùng Nguyễn:
Dưới chế độ kiểm duyệt, không thể
có một môi trường thuận lợi cho công cuộc
phê b́nh văn học, trong đó có việc bị giới
hạn trong số tác phẩm vô thưởng vô phạt…
Phải chăng giới phê b́nh gần như bị bó tay v́
không tiếp cận được với những sáng tác
có tính khai phá đích thực?
Nam Dao:
Thưa anh, vô thưởng vô phạt th́ dĩ nhiên chẳng
có ǵ để phê, để b́nh. Và chế độ
kiểm duyệt ở Hà Nội chỉ cho phép sáng tạo
có tính h́nh thức kiểu ngôn ngữ uốn éo làm xiệc,
nhưng chớ đụng vào những vấn đề ‘’
nhậy cảm’’. Hiện nay, phải tránh đụng
đến hai chữ Trung Quốc. Ta hẳn nhớ vụ
ông Bush bị ném giầy vào mặt. Hai vị nguyên thủ
khác cũng bị ném như vậy, một là Thủ
Tướng Ôn Gia Bảo. Khi truyền thông Việt Nam loan
tin (như mọi nơi khác) th́ ông Ôn này thành một vị
nguyên thủ Á Châu không nêu danh, và dĩ nhiên giầy chệch
đối tượng đến 2,3 thước,
khiến ông khỏi phải tránh như ông Bush. Vinh quang
thật! Nhất là cho người phóng viên ‘’phải’’
viết tin kiếm sống : khéo mới nói đến cái
chi tiết 2, 3 thước đó để chúng ta hiểu
ra cái ngô nghê của chế độ kiểm duyệt và…các
vị cầm quyền![1] Nhân đây, xin nhắc chuyện
Rồng Đá của Vũ Ngọc Tiến-Lê Mai bị thu
hồi, nhà xb Đà Nẵng phải tạm ngưng hoạt
động, và nhà văn Đà Linh mất chức phó
Tổng Biên Tập (đây cũng là nơi in ‘’Trần
Dần-Thơ’’). Nếu ṭ ṃ, mời bạn đọc tham
khảo trao đổi ‘’Tại sao lại cấm Trăng
Nguyên Sơ?’’ trong đó giả thiết lư do ‘’ thật’’
dính dáng đến tương quan Trung Quốc-Việt Nam
có vẻ thuyết phục.
Phùng Nguyễn:
Trong bài “Bây giờ tôi hát Lạc quan đen?” trên Hội
luận, anh đă đề cập đến khả
năng “vong thân” của các tác giả hải ngoại
muốn tác phẩm ḿnh được xuất bản trong
nước. Trong khi phát biểu của anh trong “Bây giờ
tôi hát lạc quan đen?” không nhất thiết mâu thuẫn
với chuyện anh cho phép ấn hành Trăng Nguyên Sơ
trong nước, độc giả có thể đặt câu
hỏi tại sao anh lại đi làm một việc mà chính
anh đă cảnh báo người khác. Câu trả lời
của anh là ǵ?
Nam Dao:
Có lẽ anh nhắc đoạn văn này :
‘’Với kiểm duyệt trong nước, tôi xin nói ngay, và rất cụ thể, rất chủ quan: nhà văn/nhà thơ hải ngoại không chỉ v́ in ấn phổ biến mà đánh mất tự do - và thế là đánh mất ḿnh – hạ ḿnh chấp nhận những thao tác kiểm duyệt khiến nội dung ḿnh muốn chuyển tải mất đi, hoặc giảm thiểu, hoặc biến dạng thành thứ sản phẩm muốn hiểu thế nào th́ hiểu với cái danh xưng mỹ miều trá h́nh mang tên ‘’ẩn dụ’’ mà thực ra chỉ là loại h́nh x́u x́u ển ển của những nhà ảo thuật. Nếu kiểm duyệt câu chữ (cho rành mạch, sát gu độc giả với những từ ngữ mới thời thượng), thông báo và chỉ in ấn khi có sự đồng t́nh của tác giả th́ ta chấp nhận th́ được: đây là trách vụ biên tập - ‘’editing’’- một sự cố b́nh thường ở mọi địa bàn văn chương, nhất là ở Mỹ và ở nhiều nước Âu châu. Chúng ta không thể dễ dăi nhân nhượng ǵ với kiểu kiểm duyệt va chạm đến quyền tự do tư tưởng và ngôn luận. Làm thế, ta phủ định chức năng nhà văn/nhà thơ. Ngược lại ta được ǵ? Huyễn tưởng có tác phẩm đến với công chúng? Công chúng nào cho những tác phẩm mà nhà văn vong thân đánh mất ḿnh? C̣n như nếu bạn cho rằng phải thế mới đến được độc giả th́…. xin thưa ngay, trí nhớ của độc giả ngắn c̣n hơn một câu văn không thật, tức là zỏm, như bản thân người viết đánh mất ḿnh. Thế th́ in để làm ǵ nhỉ?’’
Vâng, tôi viết thế và xin bảo lưu. Thật ra, Trăng Nguyên Sơ không hề ‘’ bị’’ biên tập : nhà văn Đoàn Tử Huyến in ‘’ nguyên con’’ ( cám ơn anh Huyến). Như vậy, tôi không có ǵ mà phải vong thân. C̣n đưa văn chương viết bằng ngôn ngữ Việt về cái nôi văn hóa của nó, tôi thiết tưởng là chuyện tất nhiên. Tôi có thể viết bằng một ngôn ngữ khác, như Đinh Linh, như Monique Trương…Nhưng thú thật, tôi có thử qua, và mỗi lần, cái cách tôi cảm nhận không hiểu sao khác với cách cảm nhận khi tôi viết bằng ngôn ngữ mẹ. Sự chọn lựa viết của tôi bắt đầu là chọn ngôn ngữ chuyển tải. Và tôi quyết măi măi là người Việt. Cái giá làm người Việt, khá đắt, như anh biết đấy.
Nhưng đúng là tôi có cảnh báo khả năng vong hóa của người viết khi muốn in ấn để đến với độc giả trong nước. Ngoài kiểm duyệt của các quan văn hóa mà trích đoạn trên đă đề cập, phải nói thêm về hiện tượng ‘’ tự kiểm duyệt ‘’. Một tác giả cứ khăng khăng ‘’ dao to búa lớn ‘’ với giọng điệu ‘’ khiêu khích’’ để chuyển tải một nội dung ‘’ nhậy cảm’’ hẳn khó lọt cửa quan. Nhưng cùng nội dung đó, nói thế nào cho ‘’người ta’’ nghe mà nhà văn không phải thỏa hiệp với quyền lực, không khoan nhượng trước những trái tai gai mắt trong xă hội, không ‘’ đánh mất’’ ḿnh để thể hiện chức năng của người cầm bút, là tối quan trọng. Viết là để nói, nói với độc giả, và in ra tức nói được với nhiều người. Không nói được, th́ tất nhiên chẳng ai nghe thấy ǵ, và viết lách thành chuyện ‘’toi cơm’’ vô tích sự! Nhưng nói theo cái tiếng hót của quyền lực, th́ nói làm ǵ, ai nghe!
Phùng Nguyễn:
Tôi có cái hân hạnh được anh cho phép đọc Trăng
Nguyên Sơ trong dạng bản thảo trước
đây. “Khủng hoảng đạo đức” của xă
hội VN là chủ đề/quan tâm lớn nhất của
Trăng Nguyên Sơ. Anh có thể chia sẻ cùng độc
giả Da Màu cách tiếp cận vấn đề này trong
Trăng Nguyên Sơ hay không? Cũng xin anh nói qua về
cái nhu cầu truy tầm vật Bảo Quốc Hộ Dân.
Nam Dao:
Thế Nước có chông chênh, mới phải Bảo
Quốc. Dân đen có lầm than cơ cực, mới
phải Hộ Dân. Đi t́m, là v́ chưa (không) có. Hoặc
mất. Đúng như anh cảm nhận, cái mất đó
anh gọi là ‘’ khủng hoảng đạo đức’’. Và
có t́m lại được, th́ mới giữ
được Nước, mới đỡ
được Dân.
Cuộc khủng hoảng nói trên - hiện tượng ‘’ đạo lư rễu ră’’- đă tác động đến gia đ́nh, đơn vị cơ sở trong nhiều xă hội loài người. Ở đây, tôi xin trích lại báo động Vượt Ngưỡng của GS Nguyễn Huệ Chi cách đây không lâu trong chuyên mục khủng hoảng đạo đức trên Talawas Blog :
T́nh trạng vượt ngưỡng: ‘’ Sự khủng hoảng đạo đức trong xă hội chúng ta đă vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xă hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hăy cứ nh́n vào nhiều ngơ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lư trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đă chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người (mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ…)[2] . Phải coi đây là một sự băng hoại không thể xem thường, một cảnh báo về nguy cơ tồn vong của cộng đồng dân tộc.’’
GS Chi đánh giá con vật quá thấp. Thú dữ như beo cọp cũng không giết con ăn thịt, v́ tồn sinh của ṇi giống là thiên luân. Thế mà…nghe GS kể ở trên….th́ chẳng lẽ xă hội Việt Nam mất cả thiên luân, nghĩa là đang trên đà xuống thấp hơn cả loài thú ư? Tôi không nghi ngờ ǵ lời vị GS khả kính này : muốn kiểm chứng, chúng ta lên mạng t́m báo (như báo Công An ND chẳng hạn) mà xem tin tức đời sống xă hội ở Việt Nam th́ rơ.
Hẹp nhất, và gần gũi cho mọi người là gia đ́nh, h́nh thái sơ đẳng từ những ngày nhân loại biết đứng trên hai chân. Xa hơn, rộng hơn, là bộ lạc hợp thành làng xă, h́nh thức tổ chức xă hội đến từ nhu cầu cộng sinh hầu có thể tồn tại trước những đe dọa mà tổ chức gia đ́nh không đối phó nổi. V́ chung sống với nhau, phải có ‘’ luật chơi’’. Cá nhân này buộc chấp nhận cá nhân kia, rồi nâng cấp từ cá nhân lên làng xă, quận huyện, vv… Những luật chơi này là ước lệ cộng sinh của những tập hợp đồng thuận. Nếu ‘’luật’’ có thể thành văn,bất biến và không tùy tiện th́ ‘’lệ’’ , được hiểu ngầm, thường là truyền thống văn hoá trong ứng xử, cũng rất quan yếu. Con người thành h́nh một thứ đạo lư xă hội giữa những con người với nhau, tôi xin tạm gọi là xă luân. V́ là xă hội con người, nên sự tôn trọng thành tố con người hẳn tất nhiên : gốc rễ của xă luân ắt lấy cơ sở là nhân luân, đạo làm người. Đạo làm người bắt đầu đến từ nhu cầu chung sống, nhưng qua gạn lọc của thời gian, Đạo đó là một tập hợp minh triết tồn tại trong một xă hội.
Hiện nay, những hiện tượng vượt ngưỡng cảnh báo ở trên có, và nguy cơ con người Việt Nam mất ngay cả đến thiên luân đă ló dạng. Đúng là đạo lư đang rễu ră và chúng ta không thể bàng quan đứng ngó rồi lặng thinh im miệng được! Cảnh báo về nguy cơ tồn vong cuả cộng đồng dân tộc phải được xếp hàng đầu trong những lưu tâm về thời cuộc.
Phùng Nguyễn:
Thưa anh, đạo lư rễu ră ra sao, những ǵ, trong xă
hội ‘’hậu chiến’’ hiện nay ? Và tại sao
đạo lư rễu ră? Hoàn cảnh tâm lư, lịch sử, và
vấn đề văn hóa?
Nam Dao:
Đạo lư rễu ră ra sao? Nhiều lắm, mọi
mặt, và trong mọi tầng lớp xă hội. Nhưng xin
đơn cử lại cảnh báo của ông Chi : hạt
nhân gia đ́nh đang vỡ mảnh, và đă có hiện
tượng ông giết cháu, bố mẹ giết con,
tức con người mất đến cả thiên luân mà
Trời phú cho mọi sinh vật : thiên luân là cách
định danh cho cái bản năng bảo tồn ṇi
giống. Mà không c̣n thiên luân, th́ đánh mất nhân
luân-một sản phẩm văn hoá- dễ như chơi,
có khó ǵ. Nhất là một khi xă hội ‘’ lơ ‘’ đi,
như ở miền Bắc, chuyện một bé gái làm ô-sin
bị nhà chủ hành hạ đến gây thương
tật đă hàng chục năm mà tổ dân phố và lân
bang hàng xóm làm ngơ cho đến khi báo chí ở Hà Nội
phanh phui. Ở miền Nam, phong trào bán con đi làm dâu Đài
Loan, Đại Hàn… không gặp phản ứng ǵ gay
gắt. Nhớ thuở xưa, thời 20-40 ở miền
Bắc, lấy Tây th́ bị gọi là Me Tây. Thời 60-70,
trong miền Nam, lấy Mỹ th́ bị gọi là Me Mỹ.
Thương cho các nàng dâu xứ người thời nay.
Họ cũng tủi nhục có kém ǵ xưa, nhưng có chút
an ủi, họ không bị gọi là Me. Xă hội tâng
họ lên bà, và các bà về xây cơ ngơi cho cha mẹ, mua
đất dựng nhà Từ Đường, đủ làm
khao khát bao nhiêu người muốn nhưng chẳng
được như vậy. Trong điều kiện
tồn tại ngày ngày đủ no đă quá khó, đắm
đuối vật dục thật tự nhiên. Phẩm giá
tiết hạnh đều là sản phẩm khi bụng
không đói, và nh́n về phía trước thấy chút ánh sáng
tương lai.
Cách hành xử của mỗi cá nhân dựa trên cơ sở anh (chị) ta kế thừa ǵ từ giáo dục gia đ́nh, học đường, và những điều mắt thấy tai nghe trong xă hội. Tôi xin phép đưa ra vài nhận xét về vấn đề giáo dục thời ‘’ hậu bao cấp’’, trước khi bàn đến phạm trù xă hội.
Hết bao cấp, miệng lưỡi uốn éo phù thủy th́ kêu ‘’xă hội hóa’’ khâu y tế và giáo dục, nhưng thực tế Nhà Nước (XHCN?) duỗi ra, đẩy những khâu vào tay người ‘’ tiêu thụ’’, bắt họ chi trả như mọi món hàng mua qua bán lại trên thị trường. Phải nói, ngay ở những nước Âu-Mỹ tư bản thứ thiệt, y tế và giáo dục vẫn luôn là một loại mặt hàng công tư lẫn lộn, loại hàng có tính xă hội, không thể chỉ mua bán trao đổi như ‘’vật tư ’’. Ở nông thôn, nơi tập trung 80% dân số với thu nhập rất thấp, trẻ em thất học, mù chữ, ngày một đông. Lớn lên, ít học hành, các em đi lên thành thị làm phu phen không cần tay nghề, lương rẻ mạt, không có chế độ an sinh, thậm chí không giấy tờ cư trú, bị bóc lột đến xương tủy trong những doanh nghiệp ngoại quốc đến ‘’ làm ăn’’. Ở thành thị, các em may mắn đi học trường ‘’công’’ cấp trung và tiểu học cũng phải đóng đủ loại phí, thầy cô lại ‘’ khuyến khích’’ học thêm ngoài giờ th́ thi mới đậu, cuối năm mới lên lớp…, lấy thêm chút thu nhập đập vào đồng lương chết đói của nhà giáo. Hiện tượng học sinh bị hạ nhục, thậm chí đánh đập nay nhiều, và ngược lại hiện tượng học sinh đánh trả thầy cô cũng không hiếm. Học đường bát nháo, cái học th́ hời hợt, học thuộc rồi trả bài, không khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo. Lên cấp đại học, ôi thôi, t́nh trạng c̣n thảm hơn. Thi mướn, bán đầu đề thi, và oái oăm thay, không biết đào tạo thế nào mà chỉ vài cái chớp mắt là thạc sĩ tiến sĩ chạy rông đầy đường, danh thiếp nào ch́a ra ( với nhau!) cũng ghi bằng cấp, học vị, chân giả lẫn lộn khó lường. Cái học thật, học để hành, không thấy đâu, chỉ vung vít danh thiếp, o e chữ nghĩa rổng tuếch. Tóm lại, học đường nay không phải chỗ nào cũng là nơi khai mở kiến thức, trau luyện con người. Khá phổ biến, học đường nhiều nơi phá phách đến triệt tiêu nhân cách, thui chột đạo lư. Vả lại, nếu khâu Giáo Dục hiện nay không là thất bại nặng nề nhất của Nhà Nước đương quyền th́ phải hiểu ra rằng ngu dân là quốc sách ư? Ờ, mà có lẽ thế thật.
Anh sẽ hỏi, thế c̣n giáo dục gia đ́nh? Ở nông thôn, thu nhập thấp, kiếm cho đủ ăn vẫn là vấn đề sinh tồn hàng ngày cho nhiều gia đ́nh. Làn sóng ‘’hiện đại’’ du nhập những sinh hoạt ‘’ văn minh thị thành’’ vào một môi trường mà thực chất là, như mọi nông thôn trong những nước kém phát triển, khá lạc hậu. Độ vênh này khiến qua TV, phim ảnh…nông dân mơ ước đổi đời, thèm khát những chân trời hứa hẹn, có dịp là bỏ lên Thành Phố, tạo một luồng di dân đáng kể. Con cái lớn lên đi t́m công ăn việc làm ở những khu Công Nghiệp. Luồng di dân về thành thị tạo ra không biết cơ man nào là vấn đề. Sự h́nh thành những ghetto, đèo vào là tệ nạn của một xă hội khốn cùng tràn lan. Gia đ́nh mất tính ổn định, và những giá trị truyền thống như t́nh nghĩa, tương trợ xưa là chất keo gắn một tập thể cũng dần dần biến mất.
Ở thành phố, trong cuộc sống xô bồ thị dân, phấn đấu kiếm tiền chiếm hết thời gian. Cha mẹ ít điều kiện dạy dỗ con em, đàn ông t́m ‘’ thư giăn’’ sau công việc, đàn bà th́ ‘’ ông ăn chả bà cũng ăn nem’’. Trong nhiều trường hợp, ngoài những nhu cầu ăn, mặc…con em bị bỏ bê, lạc lơng, lông bông, kéo bè kéo đảng, lớn lên với nhau như cây cỏ. Gia đ́nh không chuyển tải được những nội dung đạo đức cơ bản, thậm chí ngược lại, phô bầy cái xấu, cái vô lương, sự phản trắc vô t́nh bạc nghĩa…Trẻ em cần những mẫu h́nh đạo đức để úng xử, phân biệt phải trái, hay dở, để hiểu và cảm nhận thế nào là nghĩa, là t́nh. Giáo dục gia đ́nh trong lớp thị dân hiện nay không đáp ứng được đ̣i hỏi này. Dỉ nhiên không phải gia đ́nh nào cũng xấu, và không phải môi trường học đường nào cũng rễu ră. Có những gia đ́nh và học đường vẫn cố ngoi lên khỏi cái vũng bùn thời thế. Nhưng hiện tượng khủng hoảng đạo đức có đấy, và dường như ngày một phổ quát nên buộc phải nói, dẫu cần cường điệu. Xin ghi nhớ cho, đạo đức di truyền từ thế hệ này qua thế hệ kia. Sự băng hoại đạo đức v́ thế có khả năng kéo dài, và muốn khôi phục lại, sẽ cần rất nhiều thời gian. Và nước mắt.
Câu hỏi anh đặt, ‘’tại sao đạo lư rễu ră : hoàn cảnh tâm lư, lịch sử và vấn đề văn hóa ?’’, không đơn giản. Nếu muốn trả lời nghiêm túc th́ cần một công tŕnh tập hợp những kiến thức về lịch sử cận đại, về dân tộc học, xă hội và tâm lư học. Một người, hai người làm không xuể, chúng ta cần một đội ngũ những nhà văn hoá và khoa học, tốt nhất là cộng tác giữa trong và ngoài nước để khách quan, tránh những thiên lệch cảm tính. Ở đây, tôi chỉ góp chút gợi ư, mong đánh động những ai c̣n thiết tha với đất nước và cộng đồng dân tộc.
Anh cho phép tôi đề cập ngay hiện trạng một xă hội ‘’hậu chiến ‘’ như anh gọi. Mầm mống khủng hoảng đạo đức có ngay từ thời Việt Nam du nhập đấu tranh giai cấp, bắt đầu với Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc. Con cháu đấu bố, mẹ, ông bà…Đấu ngay ở đỉnh làng, dàn dựng cho dân làng tham gia, căm thù trở thành thuộc tính cuả giai cấp vô sản vùng lên. Đạo đức ‘’ Cách Mạng’’ (ĐĐCM) đào lỗ chôn đạo đức cổ truyền (ĐĐCT) [3], nèn đất, bóp cổ bịt miệng những ai phản kháng, và răn đe chẳng chỉ một đời mà tới ba đời. Hậu quả của khủng bố đỏ: gia đ́nh và làng xă thành xác không hồn, và dưới cái gọi là nền chuyên chính vô sản, gia đ́nh c̣n đấy nhưng co cụm, lời ăn tiếng nói dè sẻn ngay cả với nhau. Làng xă cũng c̣n, nhưng lớp cường hào mới có đảng tịch xuất hiện. Chúng bắt đầu quản, rồi phân, nắm cái chia chác trong một xă hội xin-cho, kẻ cho là những kẻ nắm quyền lực chính trị, người xin th́ phải …ngoan ngoăn, lớn miệng hô khẩu hiệu… không th́ rất có thể mất hộ khẩu, bị bỏ đói. Ức ép đến cùng cực, dân phản đối, ông Hồ ra lệnh ‘’ sửa sai’’, tướng Giáp xin lỗi đồng bào và nạn nhân, nhưng tất cả chỉ ngoài cửa miệng. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục, ma mănh hơn, với cuộc Căi Tạo Công Thương nghiệp. Đồng thời, quyền lực răn đe trí thức qua vụ đàn áp Văn Nghệ Sĩ trong Nhân Văn- Giai Phẩm. Cái sợ bao trùm lên thành phố, lên nông thôn, mọi nơi, mọi chốn, trên mọi tầng lớp xă hội. Muốn yên thân, kẻ khôn ngoan hăy ngậm miệng ăn tiền. Hoặc nói mà ‘’như không nói ǵ’. Hoặc nói dối, trí trá, nói bóng, kiểu ẩn dụ như con kỳ nhông thay mầu nào vào cũng ‘’ tốt thôi’’. Nếu bực bội quá, thi thoảng xả xú báp bằng cách tiếu lâm, nhưng coi chừng, có ai mà bá cáo…th́ cũng phiền. Văn hóa trí trá lên ngôi, và đám có ăn học - tạm gọi là trí thức- thành nha lại gần hết. Nha lại, ắt phải pḥ chính thống, cúc cung cong lưng trước quyển lực, tức Đảng lănh đạo. Thời c̣n chiến tranh, cũng khó mà làm khác đi được trong một Xă hội Trại Lính xếp đặt kiểu hàng dọc mọi quan hệ giữa người với người. Trí thức nha lại ra đời, nhà văn – nhà thơ nha lại ra đời, kẻ thích có quyền th́ tiến thân vào pḥng Tổ Chức, người thực dụng nhắm ăn cắp th́ cố cái chức Thủ Kho để quản, để phân ( ǵ cũng quản, ǵ cũng phân, đến phân cũng quản) trong cơ chế bao cấp.
Sau 1975, chính quyền lại rêu rao ĐĐCM hệt như miền Bắc sau hiệp định Genève : Cải Tạo Tư Sản được lập lại, hai ‘’ trận đổi tiền ‘’ là đánh cướp giữa ban ngày, và trầm trọng nhất, chính sách Học Tập Cải Tạo nói một đàng làm một nẻo khiến người miền Nam dí dỏm kêu ‘’ nói dzậy mà không phải dzậy’’. Theo chân người Bắc vào định cư, cách hành xử bị cái sợ o ép nên thành trí trá lan ra như bệnh truyền nhiễm trong miền Nam mới được ‘’ giải phóng’’ . Cái xấu xí ngự trị, sự tốt đẹp biến dần. Nhưng sau thời chiến, hết viện trợ các nước ‘’anh em’’, nay phải tay làm hàm nhai. Nhưng khi đó tầng lớp lănh đạo mới để lộ ra những yếu kém của thứ tư duy rập khuôn (ôi, rập khuôn thất bại của Liên Xô mới năo ḷng) và giáo điều hoang tưởng kiểu ‘’ một người cho mọi người và mọi người cho mỗi người’’. Phải phá rào. Phải phân định lại những thành phần kinh tế, chấp nhận kinh tế tư nhân, và khoán sản phẩm. Trong khi khối Xô Viết bước vào khủng hoảng và Đặng Tiểu B́nh hô hoán chuyện ‘’mèo trắng mèo đen, mèo cứ bắt được chuột là tốt’’, Việt Nam rón rén đi vào thời Đổi Mới với chính sách ‘’ ba lợi ích’’. Đến năm 90, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, cái thượng tầng kiến trúc của ĐCSVN một chân tḥ ra ngo ngoe chực rơi xuống vực thẳm, chân kia loay hoay móc vào cái rễ cây phong kiến ngh́n đời nay thành phương tiện cứu nguy. Thế là người ta mang ‘’ Tư Tưởng Bác Hồ’’ ra làm phao nổi, và bơi qua sông, nhưng bờ bên kia là ǵ? Là phong kiến đội lốt XHCN. Chiếm được quyền lực rồi, nay phải giữ quyền lực, giữ rịt, giữ như con ngươi của mắt ḿnh, mặc dù mắt có mù loà, và nh́n gà thường là hóa quốc. Tuy không phải là không có người nh́n ra vấn đề, nhưng chỉ chạm đến từ Đa Nguyên là ông Trần Xuân Bách, Bí Thư Ban Thư Kư, người đứng thứ 3 (4?) trong Bộ Chính Trị, phải về vườn. Đa nguyên thôi đă thế, chưa nói đến hai chữ Dân Chủ, hai chữ lập tức được đèo thêm tính từ Tư Sản, con ngáo ộp đă ăn vào tiềm thức sau gần 40 năm ‘’ tẩy năo’’. Không thấy củ cà-rốt trước mắt mà roi đă vung lên cao, trí thức-nha lại tức th́ rụt cổ, co vai, như thường lệ. Một số nhỏ những trí thức chân chính, với tiếng nói đơn lẻ, đành bó tay ngậm miệng!
Giữa thập niên 90, chính sách Đổi mới và Mở cửa cho phép h́nh thành một giai tầng trung lưu thành thị. Những doanh nhân muốn thông lọt phải qua hệ giấy tờ hành chính khá nhiêu khê, và thế là buộc phải đút lót quà cáp để, như cá vượt Vũ môn, qua cửa quyền. Cán bộ cấp trung ăn theo, làm giầu, và tạo ra thứ ‘’văn hóa tham nhũng’’, coi chuyện ‘’ đầu tiên’’ (nói ngược) là tự nhiên và tất yếu. Ăn chặn (chứ không phải lao động) là vinh quang, và tiền bất chính th́ tuồn vào đầu cơ nhà đất, tạo ra những nghịch lư kiểu đất ở phố Tràng Tiền – Hà Nội ( thủ đô một nước chậm phát triển, sản xuất thô lậu) c̣n đắt hơn cả đất trong trung tâm Tokyo hay NewYork (là những nơi nổi tiếng mắc mỏ ở những nước tiền tiến).
Nhưng đám Tư Sản đỏ mới ghê. Dĩ nhiên, đất có giá th́ dùng quyền lực để chiếm đoạt dưới những chiêu bài rất kêu như xây dựng khu công nghiệp, khu du lịch với sự hợp doanh của Tư bản nước ngoài. Và trong một đất nước mở ra vẫy gọi đầu tư quốc tế, th́ chỗ thâm thụt lớn nhất là những công tŕnh tầm cỡ quốc gia ( tỉ như vụ PMU 18, và mới đây là vụ bô-xít Tây Nguyên), vừa gọi đầu tư trực tiếp, vừa đi vay, đi xin viện trợ, cần th́ ‘’ bán’’ luôn cũng được! Ai thâm thụt ở tầm cỡ này? Chắc họ phải ở những cấp lănh đạo cao nhất mà thôi! Chúng ta nhắc lời dân dă : nhà dột từ nóc dột xuống. Đấy là dột. Nhưng t́nh trạng thật là nhà không nóc, dẫu tôi nào có muốn cường điệu hóa một thảm kịch vốn đă quá tang thương. Thực trạng là, nay trên đất nước của chúng ta, ăn cướp, ăn cắp, ăn chặn vừa hàng dọc từ trên xuống dưới và ở mọi địa phương, vừa hàng ngang với đủ mọi ban ngành, tất cả thành một mạng chân rết chui rúc gậm nhấm đời sống tinh thần và vật chất toàn dân.
Tóm gọn, căn cơ của khủng hoảng đạo đức hiện nay là sự áp đặt cái Đạo Đức Cách Mạng biện minh và hỗ trợ cho cuộc đấu ‘’một mất một c̣n’’ của giai cấp vô sản với gia cấp tư sản. Hiểu Marx một cách hời hợt, nhưng biết phương pháp tổ chức Lênin, nhất là thấm nhuần cái sắt máu Xtalin-Mao, những người nắm quyền lực ở Việt Nam từ thế hệ cụ Hồ đến nay đă đưa xă hội chúng ta vào t́nh trạng đạo lư rễu ră.
Sáu mươi năm qua, cái nhân danh tập thể đă bóp cá nhân teo tóp. Để tồn tại, cá nhân muốn sống sót phải biết sợ mà tùng phục, phải trí trá với quyền lực và cả với nhau, kẹt th́ cố mà ‘’phá rào’’ chui ra, chui là trên bốn chân, và cứ thế, chẳng chỉ vong thân tha hóa mà c̣n có cơ nguy ‘’ cầm thú’’ hóa, thậm chí mất cả thiên luân để xuống cấp thành ma quỉ. Trẻ em cần khuôn mẫu. Nhưng hiện nay không thiếu cảnh gia đ́nh tan nát, học đường ung ruỗng, làng xă thành trường giác đấu giữa đám cường hào mới và những người dân đă lầm than từ muôn đời… Trẻ em nh́n, và chúng lấy chi làm mẫu mực cho những hành xử có tính người để xây dựng một xă hội giữa người với người? Khôn chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống. Trong xă hội ‘’ phong kiến mới’’, biết là biết ǵ? Biết ton hót, dối trá, lừa lọc, biết đội trên đạp dưới. Đạo lư là chuyện trở thành thực dụng thừa cơ nắm quyền, làm giầu, đổi màu như kỳ nhông, và phát thanh những kỷ cương rao giảng mà mặt trái là loại hiện thực nhếch nhác nhiều lúc khó mà tưởng tượng nổi.
Nếp văn hiến cha ông để lại bây giờ c̣n sót lại được bao nhiêu? Nguy cơ mất văn hoá ngày càng rơ, và so với mất đất mất biển, tai họa này c̣n có thể hung hiểm hơn nhiều. V́ biển và đất vẫn đấy, sau này c̣n có thể đ̣i lại. Nhưng mất văn hoá, là mất ḿnh, th́ chỉ c̣n khả năng bắc thang lên hỏi ông Trời. Đấy là lạc quan. Thực tế có lẽ tệ hơn, nghĩa là rồi cứ thế, ngu ngơ, đến hỏi cũng chẳng biết hỏi ǵ!
Phùng Nguyễn:
Giải pháp Trăng Nguyên Sơ đề ra để
cứu văn một nền đạo lư rễu ră là ǵ? Có
phải là quay lại cái gốc và sự minh triết
của những văn minh cổ (xă hội Mường
chẳng hạn)?
Nam Dao:
Tôi viết trong ‘’Vài lời… cho một số phận’’
đă hiển thị trên damau.org:
‘’…giữa cái môi trường đạo lư rễu ră ( báo chí Việt Nam hàng ngày nói ra rả ), hy vọng tái tạo một xă hội làm người với nhau vẫn c̣n. Vật bảo quốc hộ dân trong Trăng Nguyên Sơ là ư thức thôi đừng chiếm của người làm tư hữu, tỉ như chiếm nhà, cướp đất, lấn sông, bán biển… thậm chí chiếm hữu cả t́nh yêu là phạm vi phi vật thể…Quí vị nào đó đọc đúng cung cách lề bên phải ( tức hữu khuynh trong một nền tư bản rừng rú chỉ c̣n ăn cướp ăn cắp) hẳn phải nhắm một mắt, thấy một chiều, và là chiều dẫn xuống đáy vực. …’’
Từ ngày quyết định cầm bút, tôi đă chú trọng vào vấn đề quyền lực, thể hiện phần lớn qua bộ tiểu thuyết lịch sử Đất Trời-Gió Lửa-Bể Dâu. Tương quan giữa quyền lực tập thể (hoặc lạm danh tập thể) và cá nhân con người Việt Nam là một vấn nạn. Cá nhân yếu, nên mới có hiện tượng ‘’đánh hội đồng’’, kéo bè kết đảng trù dập nhau, qui chụp bất kể t́nh-lư, dối trá, reo rắc hận thù, triệt tiêu cá nhân nhau bằng đủ thứ thủ đoạn… Quyền lực, chủ yếu là quyền lực kinh tài kết cấu vớí chính trị, hiện nay từ Đông sang Tây, thể hiện thế nào? Bằng sự chiếm hữu. Quyền ra tiền, và tiền th́ chui vào tay áo các đại gia, nếu không là, th́ cũng sát nách, những người nắm quyền lực chính trị. Trong thế giới mất định hướng, nghĩa là bế tắc (cả thế gian này bế tắc, như công văn của Cục Xuất Bản do ông Nguyện Kiểm kư đă ghi nhận), th́ nhân danh (và thường là mạo danh) tập thể xă hội, quyền lực bó những con người cá thể vào trạng thái bất lực và rời rạc (vô tổ chức), hô những khẩu hiệu mị lừa, tha hồ khuynh đảo chẳng hiện tại mà c̣n cả tương lai những thế hệ kế thừa ( mắc nợ như ở Việt Nam). Nhưng theo tôi, trên con đường đi t́m vật dục và quyền lực, nhân loại sẽ ( hay đang) đi vào những bế tắc không khắc phục nổi.
Sinh ra, cứu cánh của con người là hạnh phúc. Làm sao đạt được đây? Trăng Nguyên Sơ đề nghị gạt đi ḷng tham (một trong ba điều Tham-Sân-Si trong đạo Phật), thôi chiếm hữu, quay về trạng thái hồn nhiên thuở trời đất trinh nguyên (rất gần với J.J.Rousseau phương Tây[4], nhưng cách nh́n này đă khởi phát từ nguồn Lăo-Trang phương Đông [5]). Nếu mỗi người đều làm như thế, nghĩa là xă hội chấp nhận một văn hóa mới trong đó vật dục không c̣n là cứu cánh, và đạo lư giữ vai tṛ trụ cột, th́ cuộc truy lùng hạnh phúc mới có cơ thành hiện thực.
Thật ra, cách nh́n này, có thể nói là cách nh́n phản-tư lợi hẹp ḥi [6] không mới mẻ ǵ cho cam, Đức Phật đă giậy từ 4000 năm trước. Gắn vào câu chuyện chủ thể ‘’ tôi ‘’ đi t́m nhân vật truy lùng vật Bảo Quốc Hộ Dân trong vùng người Mường cư trú (Hoà B́nh) là cách tôi dựng tiểu thuyết mà thôi, và điều Trăng Nguyên Sơ đề nghị nói trên có thể chẳng liên quan ǵ đến sự minh triết của văn minh Mường, ngoài cái ư có lẽ chứng ta đừng quên chúng ta từng có một truyền thống Việt-Mường từ bao nhiêu ngàn năm nay. Cái phương sách cơ bản để phục hồi đạo lư, theo thiển ư, là biến cơi nhân gian này thành Cơi T́nh, tên chương cuối của TNS. Cái T́nh giữa người với người, cái T́nh khả đắc v́ vượt được bản năng chiếm hữu. Và tôi sẽ in Cơi T́nh, bản TNS ở hải ngoại, có thêm vào bản đă in trong nước những điều tôi tạm giữ bí mật.
Tôi không đề nghị chúng ta quay về cách hành xử truyền thống. Nhưng tôi kêu gọi quay về với những giá trị truyền thống như cách Bảo Quốc Hộ Dân. Xin gạch dưới hai chữ giá trị. V́ nếu chỉ quay về truyền thống không thôi, ta quay về lấy quá khứ làm mẫu mực. Thế có nghĩa là từng bước ta ‘’tiến lên’’ xă hội thuộc địa, rồi phong kiến, rồi bộ lạc, rồi….ăn lông ở lỗ sao? Không phải thế, dĩ nhiên. Giá trị là chuyện gạn đục khơi trong, không cứ hô uống nước đầu nguồn là đủ. Về vấn đề đạo lư rễu ră, một nhà thơ đă từng lo lắng về nguy cơ này trên 20 năm trước mới viết cho tôi : ‘’ …bây giờ là ung thư toàn thân, từ đầu đến chân, từ con người đến thiên nhiên, chỗ nào cũng nhiễm độc! ‘’. Như những người sống, dẫu cổ có bật máu, chúng ta tiếp tục gào lên : ‘’ Phải làm ǵ? ‘’. Nay, cái ngôi nhà thờ tổ không nóc, nước mưa và nước mắt khiến bàn thờ cha ông có cơ mục nát, cột kèo ră rời, sợ chỉ một cơn gió bấc phương Bắc cũng đủ làm sụp đổ. Đợi cho đổ rồi xây lại? Tôi sợ như vậy quá muộn. Có lẽ ta làm sao lợp tạm lại mái, xem cột kèo cái chi c̣n giữ được th́ giữ, cái ǵ sâu mọt đă ăn rỗng ruột th́ quẳng ra ngoài sân rồi châm một bó lửa ném vào. Nhưng chớ quăng bàn thờ tổ. Sau trên dưới 2 ngàn năm, bàn thờ làm bằng gỗ gụ không chỉ v́ một trận mưa 60 năm mà tan ra thành hư không được. Rồi, với thời gian, chúng ta từng bước dựng lại cột, chống lại kèo, và khởi công xây mái, xây nhà. Và, chúng ta xây theo tiêu chí những giá trị con người, không hy sinh cá nhân cho tập thể, nhưng cũng không để cá nhân dùng quyền lực tư riêng lũng đoạn cộng đồng xă hội. V́ không là, và không bao giờ muốn, ‘’làm chính trị’’, tôi chỉ xin nói, với tư cách một nhà văn, rằng công việc xây lại ngôi nhà thờ tổ đă cấp thiết lắm rồi. Người nào khuyên tôi hăy kiên nhẫn chờ, tôi sẽ đáp, rất thành thật, tôi không thích chờ chết. Chờ như thế, kinh hoàng lắm! Thà chết ngay c̣n hơn.
Phùng Nguyễn:
Liệu người Việt ở hải ngoại đă có
những đóng góp tiêu cực nào cho sự khủng
hoảng đạo đức ở VN hay không? Nếu có,
điều này có được đề cập trong Trăng
Nguyên Sơ và dưới h́nh thức nào?
Nam Dao:
Người Việt hải ngoại có đóng góp ǵ tiêu
cực trong khủng hoảng đạo đức ở
Việt Nam không? Có thể có dăm trường hợp
đơn biệt tai tiếng, nhưng nói chung, tôi nghĩ
là không. Không thiếu Việt Kiều làm những công
việc thiện nguyện ‘’hộ dân’’. Lớp trẻ,
không có định kiến và và nhất là cái hận thù
Quốc-Cộng như ta thường gọi, cởi
mở và công bằng, là một niềm phấn khởi.
Phùng Nguyễn:
Xuyên qua
cuộc trao đổi giữa chúng ta, có thể dễ dàng
nh́n thấy mối quan tâm sâu sắc của anh với
cuộc khủng hoảng đạo đức
(đạo đức rễu ră) đang tiếp tục
diễn ra ở Việt Nam. Anh có thêm lời nào dành cho
bạn đọc Da Màu?
Nam Dao:
Tôi xin nói thêm vài lời. Trước tiên, cái hiện
thực quyền thế - kinh tài kết hợp chính trị
- đánh cướp từ Đông sang Tây (Âu-Mỹ) là
điều khiến tôi chủ quan cho rằng ‘’cả
thế gian này bế tắc‘’ được khai triển
trong cuộc trao đổi ‘’Tại sao Trăng Nguyên
Sơ bị cấm?’’ với NT Thư. Bạn
đọc có thể chia sẻ, có thể không, nhưng quan
trọng là thái độ xét lại nền văn minh
đặt trên cơ sở tư lợi và vật dục
trong giai đoạn cận đại trên toàn cầu có
thực sự cho phép mỗi cá thể (và mọi cá thể,
tức là cộng đồng xă hội) t́m ra hạnh phúc
hay không. Thiên niên kỷ này, nếu không là thiên niên kỷ
của tâm linh, th́ - như một ai đó ( h́nh như Malraux
theo trí nhớ khá tồi của tôi ) đă nói - nhân loại
này sẽ tàn phá hết, đi thụt lùi, hoặc là đi
mà chẳng biết về đâu. Thứ hai, liên quan đến
câu hỏi số 8, tôi thiết tưởng tất cả
những ai c̣n quan tâm tới tiền đồ dân tộc
phải động năo t́m ra câu trả lời nghiêm
chỉnh, khoa học về vấn đề khủng
hoảng đạo đức ở Việt Nam. Đề
nghị damau.org làm 1 chuyên mục ‘’ tại sao đạo lư
rễu ră?’’, trao giải thưởng ( vật chất
dẫu nhỏ, nhưng ư nghĩa biểu tượng
rất lớn) cho những đóng góp sáng giá. Tôi sẽ xin
tham gia, trên mọi mặt. C̣n đề nghị trong
Trăng Nguyên Sơ về cái anh gọi là giải pháp cho
vấn đề khủng hoảng nói trên th́, xin nhắc,
Trăng Nguyên Sơ là tiểu thuyết, và tác giả nó không
có cái tham vọng độc chiếm chân lư nào. Thôi chiếm
hữu - tức phủ định vai tṛ của mọi
quyền lực – và quay về với sự hồn nhiên
trinh nguyên có thể chỉ là huyễn vọng của
một nhà văn chân không chấm đất, lơ lửng
với tay vào một niềm tin để sống,
để viết, để đi đến tận cùng
thân phận và định nghiệp của ḿnh.
Trong câu chuyện của chúng ta, theo tôi, kiểm duyệt là phương cách giới hạn, và cần th́ bóp chết, quyền ngôn luận. Kiểm duyệt là phương sách xây dựng một hệ thống ‘’đóng’’, thông tin mất hết giá trị, từ đó khả năng tư duy mai một, xă hội từng bước đi vào t́nh trạng mất văn hóa. Sự kiện ngưng phát hành Trăng Nguyên Sơ nhỏ, nhưng chúng ta đă từng mong nó đánh động được dư luận về cái bản chất của chế độ kiểm duyệt, và về khà năng người viết vượt qua được cái hàng rào ngăn cấm nhiều khi thô thiển vô lư đó. Cho đến nay, ‘’bách gia tranh minh’’ nhà nhà cất tiếng, nhưng tiếng nói cùng một lúc cất lên với nhiều âm độ khác nhau th́ thật khó nghe mà hiểu. Cho đến nay, ‘’bách hoa tề phóng’’ trăm hoa đua nở, nhưng đua nở đến độ vuờn hoa biến thành rừng rú th́ rắn rết sẽ ḅ ra. Đó là một vấn đề của văn hóa mạng : nó tích cực, nhưng cũng có khả năng rất văng mạng.
Đă từng, đôi khi thôi, định bắt chước Ngũ Tử Tư, treo mắt ở cửa thành mà trông về mai hậu, nhưng tôi không đành ḷng. Chỉ c̣n ng̣i bút để khẳng định ḿnh, cố làm được cái ǵ cho đời sáng sủa hơn, tôi sẽ tiếp tục viết. Và sẽ tiếp tục gửi tác phẩm về in trong nước : ‘’tận nhân lực, tri thiên mệnh’’ thôi, anh ạ!
Khi tuyệt vọng, tôi nghĩ đến cụ Tiên Điền. Thời cụ chưa có Google, e-meo, phải viết bút lông trên giấy bản, và cũng chẳng biết việc ḿnh ‘’ tam bách dư niên hậu ‘’ liệu có ai c̣n nhớ (khóc) không mà cụ vẫn cứ kiên tâm bền trí. Thời chúng ta, hẳn đỡ vất vả hơn thời cụ, nên đừng ‘’ đổ thừa ‘’ sự bất lực của ḿnh cho những chuyện ngoại tại.
Xin cám ơn anh Phùng Nguyễn và bạn đọc tạp chí Da Màu.
Ghi chú:
[1] Nguyễn Đại Phượng trên báo Tiền Phong ở Việt Nam số ngày 7 tháng 2 năm 2009, bài báo mang tên : « Ném Giầy – Văn Hóa Quái Dị » : «…Trước đó ngày 2/2 tại London, Liên hiệp Anh, thủ tướng của một quốc gia châu Á cũng bị một người đàn ông rút giầy ném không trúng khi ông đang nói chuyện với sinh viên tại Đại học Cambridge về quan hệ hợp tác giữa nước ông và Liên hiệp Anh. Người đàn ông từ phía cử tọa đột ngột đứng dậy nói lớn ngắt lời vị thủ tướng. Nhiều người ngồi dự cuộc nói chuyện đ̣i đuổi kẻ quá khích này ra ngoài. Nhưng cũng lúc đó kẻ quá khích rút giầy ném về phía thủ tướng nhưng không trúng. Giầy rơi cách thủ tướng khoảng ba mét. Một nhân viên an ninh lặng lẽ đến nhặt chiếc giầy da đen xấu xí mang ra ngoài. Kẻ ném giầy là một thanh niên nam 27 tuổi liền bị cảnh sát Anh bắt giữ và truy tố về tội gây rối trật tự công cộng. Đại diện ban lănh đạo Đại học Cambridge bày tỏ sự chân thành xin lỗi về sự cố không vui nói trên ».
Ông Nguyễn Hùng, trên bbcvietnamese.com, viết : « Khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo của Trung Quốc bị ném giày ở Đại học Cambridge thứ Hai tuần trước, hầu như không tờ báo nào của Việt Nam đưa tin.Cho tới cuối tuần đó mới có một bài báo nói về điều được gọi là ”văn hóa quái dị” của chuyện ném giầy và trong đó ông Ôn Gia Bảo được nhắc tới với tên ”thủ tướng của một nước”.Trong khi đó trong cùng bài viết, tên của một đại sứ Israel bị ném giầy và dĩ nhiên tên của Tổng thống George W. Bush được tác giả bài viết đề cập tới. Trước đó cũng đă có nhiều cơ sở để tin rằng truyền thông Việt Nam có sự sợ hăi khi nhắc tới hai chữ Trung Quốc trong những t́nh huống mà họ sợ rằng Bắc Kinh có thể phật ḷng”.
[2] Trích Nguyễn Huệ Chi, T́nh trạng vượt ngưỡng, http://www.talawas.org?p=708:
[3] Xin tham khảo 1 bài viết tâm huyết của Thiện Ư, ‘’V́ sao đạo đức băng hoại’’ trong Talawas blogs, ngày 21/03/2009.
[4] Trong ‘’Les rêveries d’un promeneur solitaire’’, tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/rousseau
[5] Lăo Tử từng khuyên ta : “Ăn ở giản dị, tự nhiên, ít riêng tư, ít tham dục”
[6] Thuyết duy lợi ( utilitarisme) do J. Bentham và J.S Mill khởi xướng cách đây 2 thế kỷ ( tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/utilitarisme ) nay bị phái Tân-Tự Do ( neo-liberalism) cưỡng chế vào khuôn khổ thuần cá nhân, phủ định tính cộng đồng xă hội, sinh hạ cái quái thai tôi gọi là tư lợi-hẹp ḥi trong triết lư chính trị-kinh tế. Từ thời hậu chiến tranh lạnh, với Reagan bên Mỹ và Thatcher bên Anh, tư lợi-hẹp ḥi từng bước thành hiện thực. Quyền lực tài chánh không c̣n giám sát của xă hội đă đưa đến t́nh trạng khủng hoảng kinh tế hiện nay ( xem Tại sao TNS bị cấm? trong đợt bài về kiểm duyệt của damau.org).