2-VQ

hai

trước khi  dao sắc, nó chỉ là một người bình thường, thương một  giọng hò và yêu người con gái  hò những câu hò...

 

 

5

 

Sau cái chết do cơn lốc biển bất ngờ đánh úp dân chài Đất Mũi, tang thương với thời gian lắng dần, chỉ tới ngày cúng kiếng mới lại làm xao động lòng người. Bé Út nay lên ba, Tư đã mười sáu, và Thẻo là một chàng trai lênh khênh, mặt sạm sì nắng gió, ngoài chuyện nương rẫy còn đi làm thuê làm mướn, lúc nào cũng cười, không  bon chen đòi hỏi.  Dì Sáu vẫn chạy chợ, nhưng làm ăn ngày một khó. Nay dì móc nối với một người đàn bà đứng tuổi dì kêu bằng chế Lềnh. Chế tên tiếng Việt là Linh, xưa dấu không cho ai biết mình gốc Hoa, nhưng sau chiến tranh biên giới mấy năm thì chế xưng tên tiếng Hoa của mình, giọng sởi lởi : “Tên cha mẹ đặt, đâu có bỏ đi được, phải không?”. Chế có cơ sở làm ăn ở thành phố Cà Mau, và khi đến chợ Năm Căn mua hàng, chế thường ngủ lại hai đêm trong một căn nhà chế mướn. Một bữa, chế ôm vai dì Sáu, thân mật: “Nẩy[1] tới ngủ nhà ngổ[2], không lấy tiền đâu. Chị em mình mà!”. Nửa đêm hôm đó, chế lần tay vuốt ve ngực dì. Trời ơi, dì chưa đến bốn mươi, mấy năm qua cứ tưởng mình thôi là đàn bà. Nhưng không phải không có những khi thể xác đòi hỏi. Dì tự thỏa mãn, tưởng như con cọp vằn bên bờ kinh Tàu ngày xưa về phá xóm Mũi đang vồ lấy mình, thò móng vuốt vào phần dưới cơ thể. Lần này, không  phải cọp. Giả như ngủ, dì nằm yên, để mặc chế muốn làm gì thì làm. Khi chế mơn man đến độ không còn nhịn được, dì hự lên, vòng tay ôm chặt lấy chế.

 

Phần chị Hai, vẫn chăn đàn vịt, bỏ mối bán trứng, bán vịt. Ra nắng, chị bịt mặt, nón úp sùm sụp, rất sợ đen đủi nhìn là biết dân quê. Dì Sáu  từ chối mấy đám tới xin cưới, bảo chị: “Lấy con nhà chòm xóm này thì chẳng có gì tương lai đâu, Hai à!”. Chị tức tửi: …riết già, ai mà lấy!”. Trong số  người tới xin cưới có Bẩy Hiền,  chăn vịt thuê cho gia đình khá giả. Hiền thường để vịt chạy đồng, lùa một đàn hai ngàn con đến nơi chị Hai thả vịt. Lần đầu, hai đứa lớn tiếng cãi cọ, đem vụ việc ra khiếu nại với công an xóm. Công an kêu, vịt thả đồng là “truyền thống” Nam bộ mót lúa xót sau mỗi vụ gặt, nhưng ai giang sơn nấy, lấy bờ đê làm giới tuyến. Thế là hai  đối tượng, mỗi người cầm một cành tre vắt vẻo đầu buộc mảnh vải như cờ, tay xua, miệng suỵt, giữ vịt làm sao cho không có “vấn đề  biên giới”. Nhưng canh chừng như vậy quả là rất mệt. Vịt đàn nào cũng là vịt, mỏ vàng, chạy trắng xóa nhìn như những giải lụa bồng bềnh trên những cánh  đồng mút mắt. Bảy Hiền mon men đến, đề nghị :

 

- Cô Hai à, tụi mình kiểm tra dân số, rồi mặc cho tụi vịt nó lộn lạo, có mắc mớ chi mà phải canh đê, heng cô Hai!

 

Chị Hai không hiểu kiểm tra dân số là chi, hỏi, và khi nghe Hiền giải thích, chị ồ lên, thốt: “Tức là mình đếm đàn vịt có bao nhiêu con chớ gì? Dễ  thôi…”. Xế chiều, Hiền lựa một con vịt còi, lấy bùn đắp lên,  nổi lửa đốt rạ hun. Nó bóc lớp bùn khô queo tuốt sạch lông, để vịt lên dĩa  trên có  muối ớt, mang tới, miệng cười giả lả:

 

- Cô Hai à, mình làm bữa tiệc mừng ngày đình chiến, sau là hòa hợp hòa giải để sống nếp sống văn minh nghe!

 

Chị Hai nghe Hiền lại nói chữ cao sang, mắc cười, chọc:

 

- Anh nói dzậy nghĩa là chi ?

 

Hiền vòng vo giải thích khiến chị phá lên cười : “Đơn giản là hai đứa mình huề, phải không!. Từ đó, không mấy xa, hòa hợp hòa giải dẫn đến “cô”  Hai thành “em” Hai và rồi giai đoạn Hiền chỉ đám mây trắng lờ lững bay trong bầu trời trong vắt, giọng ngọt ngào: “Anh tặng em đàn vịt trời trên kia nghe…”. Khi Hiền thủ thỉ chuyện tương lai hai đứa, Hai ứa nước mắt. Rồi Hai đồng lòng, và Hiền tới thưa chuyện với dì Sáu. Dì hầm hầm: “Đi chăn vịt sau lấy gì ăn mà đòi vợ với con!”. Hai khóc ngất. Dì lập lại y chang câu dì nói nhiều lần “Lấy con nhà chòm xóm này thì chẳng có gì tương lai đâu, Hai à!”

 

Dì có lý. Tương lai ở xóm Mũi đong từng ngày khi mở khạp gạo, lọ mắm, đếm những con cá khô se cằn quá nắng cho đến chút muối trắng những bữa không còn chi ăn. Tương lai, là chiếc mền đụm lại đắp cho qua mùa gió bấc, là khốn khó khi giông về bão nổi, nhà cửa oằn mình, cột kèo răng rắc, nước mưa trút xuống len qua mái lá tí tách đánh nhịp hiện tại. Dì vuốt tóc mình, nói như mơ: “…Tụi bay phải lên thành phố mới mong có tương lai!”.  Nhưng làm sao lên được thành phố?  Chuyện đầu tiên, là tiền đâu? Nơi ăn chỗ ở, rồi hộ khẩu, rồi công chuyện làm ăn. Dì thở dài, kéo bé Út đang thiu thiu ngủ ôm vào lòng. Thầm nhủ, thằng Ba chết, rồi con Hai con Tư sẽ chồng con, may thì bé Út còn ở với mình đến tuổi già, dì ghì lấy nó như một cái phao trên mặt nước chòng chành, khiến nó ré lên khóc.

 

6

 

Tháng chín, mùa cua lên bãi. Tối hôm trước, Thẻo bảo đi ra miệt Bãi Bùng vắng người, kêu Tư sửa soạn sáng mai đi bắt cua. Ra khỏi nhà khi trời chưa hẳn sáng, hai đứa mò mẫm men theo rạch Tầu, lưng mỗi đứa đeo hai ba cái nơm, cái giỏ. Trong gió sớm, mùi bùn tanh tanh ngan ngát. Len lỏi dưới rặng đước trái chúc thẳng xuống như chỉ chực cắm xuống mặt đất, Tư quơ những bông đậu cộ tím biếc giắt lên tóc, khúc khích:

 

- Anh Thẻo hái hoa che đầu, trái đước rớt trúng là lủng đầu như chơi đó nghen!

 

Thẻo chỉ cười, tay quơ con dao bầu phạt bụi mở đường, lòng lâng lâng một niềm vui không tên. Ra đến bãi, biển mênh mông trải rộng, mặt trời loé những ánh hồng đầu ngày. Những cụm mây vắt ngang mầu đen như bị đốt cháy xém, loãng ra, biến dần đi, không dấu vết. Sóng thảnh thơi vỗ yên bờ, những con chim biển bay trắng một góc trời, cánh phản chiếu nắng mai mang mầu những ngọn lửa non mới thắp.

 

Thẻo cởi áo máng vô cây, mình trần, quần xà lỏn. Tư kéo quần bện thành những vòng lên đến háng, túm tóc buộc ngược, áo sắn lên ngang bụng. Hai đứa lui cui khều những con cua rúc vào khe đá lôi ra. Giương những cái còng mở hoác ra để tự vệ, những con cua quắp vào cây gậy, nhất định không buông, bị nhấc lên rồi gạt vào nơm, vào giỏ.  Lật ngửa một con, Tư ép ngón tay lên mang, xuýt xoa: “Chắc thịt, anh Thẻo à. Chắc là cua cái, gạch đầy mai! Tối về, nấu canh bỏ bông súng với trái giác, là hết sẩy!”. Thẻo cười. Nó không nói, nhưng ánh mắt như bảo với Tư, rằng thiên nhiên tiếp tục hào phóng và con người cứ an bình thế này, thì đúng thế, hết sẩy. Nhìn lên, trời xanh ngắt. Xa xa, bóng một con tầu. Dưới đây, một Tư da đen ròn, áo cũng đen, quần cũng đen khiến phần da thịt xưa nay không nắng gió nên ngồn ngộn trắng muốt. Tư thấy Thẻo nhìn mình chằm chặp, quay đầu đi, lại lúi húi khều những con cua. Tự nhiên, Tư liếc nhìn Thẻo sượng sùng, tay kéo vạt áo xắn ngang bụng xuống.

 

Nắng bắt đầu chói chan phà vào mặt đất cái nóng khô khốc của một cái chảo gang đặt trên lửa. Thẻo xoè tay sấp nước lên mặt. Nó thấy Tư cười,  khóe mép lung linh những  giọt mồ hôi ứa ra li ti. Môi hơi cong lên như khoe hàm răng trắng, Tư chỉ đám nơm, giỏ trên cát, kêu:

 

- …  Sắp đầy hết rồi. Nghỉ một lát nghe, anh Thẻo. Nóng quá chừng!

 

Thẻo lại cười. Nhìn con sóng biển đang đổ vào bờ, Thẻo rủ:

 

- Bơi một vòng, Tư. Nước mát lắm…

 

Không đợi Tư đáp, Thẻo lao mình chạy xuống bãi, đạp trên cát những vết chân hằn lõm xuống, mạnh mẽ, quả quyết. Tư bật cười, tiếng cười như tiếng chim. Tư chạy theo, mái tóc túm lại nay bỗng xổ ra, kéo thành một vệt dài đen tuyền ngược gió. Trầm mình vào giòng nước bảo bọc, Tư choáng ngợp trong cái chi đó mơ hồ nhưng thiệt thân thương nó cảm nhận nhưng không  biết là gì. Vùng vẫy, Thẻo sải tay bơi vòng vòng quanh Tư như con cá lia thia vờn mồi. Xa bờ, nước mặn quánh đẩy thân thể nhẹ tưng, vô ý hớp phải mặn đến đắng ngắt. Nhìn vào, rừng mắm đã thẫm sắc xanh, che những cồn đất mới bồi như mẹ chắn gió cho con một ngày giông bão. Thẻo buột miệng hét “Hết sẩy, Tư ơi hết sẩy!”. Tư cũng hét:Cái chi mà hết sẩy?”. Thẻo không biết trả lời ra sao. Ngôn ngữ của nó không đủ để nói cái điều hết sẩy nó thấy tràn ngập cuộc sống này, buổi sáng hôm nay, khi cua lên bãi và Tư ở đó, giữa những đợt sóng trắng tinh hiền hòa như giải lụa quàng vai thiếu nữ. 

 

Hai đứa lên bờ. Thẻo thình lình chúi người ngã, chân trượt trên bùn, tay đập xuống nơi lổn nhổn đá. Tư với theo nhưng không kịp. Nhìn cánh tay Thẻo sây xát, Tư múc nước biển rửa vết thương rỉ máu cho Thẻo, miệng thì thào như an ủi trẻ thơ, không có sao đâu, không có sao đâu. Lấy áo Thẻo máng trên cây, Tư lau mặt, lau lưng, lau ngực cho Thẻo. Nhìn vết thương vẫn cứ rỉ máu, Tư nâng tay Thẻo lên, nói để cầm máu. Đặt miệng vào, Tư nhẹ nhàng liếm, hệt như mèo mẹ liếm lông mèo con. Thẻo lặng người, thầm nhủ, hết sẩy. Nó nhìn vào ngực Tư phập phồng dưới chiếc áo ướt  bám sát vào da thịt. Cái gì đó, thúc đẩy. Nó nhẹ nhàng cởi áo Tư, nhắm mắt, áp mặt vào, cảm thấy bầu vú  ấm lên, căng cứng. Tư rên nho nhỏ, giọng đứt quãng: “… Đừng, anh! Ôm bầu thì chết!”,  tay đẩy đầu Thẻo ra. Thẻo vùng lên, nhổm dậy.

 

Chưa bao giờ Thẻo sợ đến vậy.

 

7

 

Con Thúy sửa soạn về quê. Nghe đâu nó đi lấy chồng xa, Tư hỏi: “…Mày biết mặt ổng chưa?”. Thúy lắc đầu: “Bu tao bảo cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thế mới là con nhà gia giáo!”. Tư le lưỡi. Thúy vênh mặt, tiếp “…với lại,  sính lễ là  tiền xây một căn nhà gạch, khỏi lo gió giựt đổ! Bu tao bảo, thế là tao báo hiếu cha mẹ…”. Sau Tết năm ấy, nó với mẹ nó về Thái Bình. Trước khi đi, nó sang nhà Tư, khoe chỉ ít lâu thì nhà nó sẽ là nhà gạch, nỗi ước mong của cha mẹ nó từ hai đời nay. Dì Sáu giúi  cho nó ít tiền làm quà, dặn thỉnh thoảng viết thư, có dịp thì cùng chồng con về chơi Đất Mũi. Dì chép miệng “…giàu sang đừng quên bà con lối xóm nghen!”

 

Chị Hai vẫn chăn đàn vịt, ấp trứng nên năm nào đàn vịt cũng thêm được dăm chục cho đến cả trăm con. Bé Út nay le te chạy theo những con vịt con nhỏ bằng nắm tay còn quanh quẩn trong sân sau. Nó khoe  nó kết bạn với một con, lông vàng ánh, mỏ trắng, mắt đen nháy, nó đặt tên là Tơ. Chạy chợ quá mệt mặc dầu chuyện ngăn sông cấm chợ nay không ngặt như trước, ý dì Sáu là sẽ chuyển qua nuôi tôm một khi Nhà Nước cho vay vốn. Dì gợi ý khuyến khích Thẻo xung phong gia công trong đợt thí điểm, đi vét đất, đắp bờ, cho nước vô những vuông ao, giăng lưới, chống kè, họp hành với mấy người cán bộ kỹ thuật huyện về Đất Mũi đặt phương án cho dân địa phương canh tác. Nhìn điệu bộ Thẻo với Tư, dì thầm nhủ, trai với gái như rơm với lửa, bóng gió: “Sau thì Thẻo với Tư cùng nhau gầy một vụ tôm, coi bộ khấm khá đó nghen!”

 

Vào giữa hè, nắng bốc lửa trên những cánh đồng xơ xác. Chị Hai hớt hải ghé nơi Thẻo làm, báo: “…Tụi nó lăn ra chết!”. Thẻo hỏi tụi nào. Chị sẵng:Thì mấy con vịt đó”. Chạy theo chị Hai, Thẻo lượm được hơn hai chục con vịt ngoẻo đầu nằm kê trên những  bờ rạch, mắt trợn trừng, mỏ hếch ra như ngợp thở. Chị Hai phân công Thẻo mang vịt  lên thị xã hỏi cán bộ có đào tạo trong ngành chăn nuôi. Cán bộ đáp: “Cũng như người, già rồi thì chết!”. Thẻo ngạc nhiên: “Nhưng sao già hàng loạt dzậy chú? Mấy con vịt mới ấp mấy tháng trước cũng lăn ra?”.  Cán bộ nẹt Thẻo lắm chuyện, đuổi về. Dì Sáu lo, chạy hỏi chế Lềnh. Chế nói: “Nghe nói vịt cũng chết như dzậy miệt Cái Nước, dịch mà…Có kế hoạch - chế thì thầm - Nhà Nước sẽ đền bù cho bà con”. Rỉ tai dì, chế nói gì mà dì sai nấu nước sôi lên, nhúng những con vịt toi vào, lấy dao mổ bỏ hết da, lông, chỉ giữ thịt. Chế thuê xe lôi đến, chở hàng xe lên Cà Mau giao cho những lò vịt quay.

 

Nhưng vịt chết lăn chết lóc khắp Đất Mũi. Đàn vịt do Bẩy Hiền cũng cùng số phận. Thành ủy chỉ thị phải đào đất sâu hai thước chôn vịt chết, và sẽ có kế hoạch bù lỗ cho dân. Đàn vịt nay gần ngàn con chị Hai gầy dựng từ hai năm nay chui tọt xuống đất dưới sự thị sát của cán bộ, trong tiếng gào khóc của chị, ai oán, tuyệt vọng. Vịt con cũng chết, quanh sân nhà nay không còn tiếng chíu chít. Bé Út nâng niu Tơ, miệng kêu: “… Dậy đi mày!”. Nó giấu Tơ dưới gầm giường, ngơ ngác như mất hồn, hỏi Thẻo: “Chết  rồi có sống lại được không?”. Hai ngày sau, không ăn không uống, bé Út lả dần, mặt xanh như lá non, tay vẫn giữ chặt con vịt Tơ nay nhũn ra thành một nắm thịt sắp bốc mùi. Khi Tư gỡ được những ngón tay bé Út khỏi cái nắm thịt  ấy thì nó ngật đầu về phía sau, miệng mím chặt, người giựt lên ba lần. Dì Sáu như phát rồ. Gào lên: “Út  đi rồi thì má già má sống với ai?” rồi cười ằng ặc, dì múa may như bị cốt nhập, nước mắt chan hòa. Thẻo đẽo những cột đước đóng một chiếc quan tài cho Út, lên chùa xin Sư làm lễ cầu siêu ngày vùi nó xuống ba tấc đất. Tư chôn theo xác con Tơ, miệng khấn “Để nó theo Út cho có bạn!”. Khi hóa vàng, trời bỗng tối sầm, ai nấy đều nghe trong tiếng sấm động có tiếng vịt quàng quạc kêu vang. Dì Sáu sụp xuống, hai tay ôm nấm mộ còn ướt, tóc rũ rượi sổ ra, mặt mũi lấm lem đất trộn vô nước mắt.

 

8

 

Thẻo bước theo Tư. Đến bờ kinh, Tư ngồi, mắt mọng đỏ, sưng vù. Thẻo lúng túng, không biết nói gì. Thình lình, Tư hò, tiếng mong manh tựa chút ánh sáng đang thở hắt trên đầu những cành đước chỉa ngang:

 

Ầu ơ ớ  ơ…

Sóng đưa , sóng đưa (mà) hoa  súng trôi xuôi

Sóng đưa xa lắc …mặc tui giữa dòng…

Ầu ơ ớ  ơ…

Ầu ơ, ví dầu…

Cầu tre vắt vẻo chênh vênh

Vì ai  nên cứ  dấn mình bước qua

Ầu ơ ờ ơ

Sông sâu nước cuộn trôi xa

Dập dềnh là những kiếp hoa trái mùa…

 

Đêm lặng lẽ rơi xuống mảnh đất tang tóc đau thương. Thẻo biết, ở mức cuối của mọi chịu đựng, Tư chỉ còn tiếng hò của chính mình để vực dậy mà tiếp tục sống. Thẻo hiểu, đó là món quà độc nhất Tư có thể cho những  người xung quanh trong những giây phút phải bám víu vào chút ý nghĩa của cuộc đời. Thẻo nhớ buổi đi bắt cua trên Bãi Bùng. Nó nhắm mắt, có cảm giác mặt mình vẫn còn áp vào da thịt Tư. Nó nhớ nó vùng dậy, xách giỏ, xách nơm cắm cúi đi trước, không  dám nhìn lại Tư im lặng theo sau. Về đến nhà, Thẻo không nói không rằng, đi thẳng một mạch lên chùa tìm Sư. Hỏi Sư như dzậy có ôm bầu được không, Sư hỏi lại, như dzậy là làm sao. Khi nghe Thẻo kể xong, Sư bật cười. Cố nghiêm nghị, Sư trầm giọng:

 

- Dzậy thì chỉ sắp, chứ chưa ôm bầu. Lần sau, xa nó ra, chứ cứ như dzậy  hoài thì rồi sẽ có ngày ôm bầu đó !

 

Tối về, Thẻo bảo với Tư, giọng ngượng ngùng:

 

- Chưa ôm bầu được đâu !

 

Trong đầu, Thẻo muốn thêm: “... Rồi anh sẽ thưa với dì xin cưới hỏi em đàng hoàng. Lúc đó, ôm bầu là hết sẩy!”, nhưng miệng khựng lại.

 

Cho tới nay, nó vẫn chưa nói gì. Đàn vịt chết hết, tương lai trụ vô đâu? Thẻo nhớ đến những vuông tôm, đến lời hứa hẹn dành ưu tiên cho những người như Thẻo đang xung phong làm việc không công cải thiện nền kinh tế. Tiếng hò đã tắt lịm, dăm cái bóng vạc lênh khênh trên ruộng xa biến mất, và gió ở đâu thốc cái lạnh chập chờ bốc lên từ những con kinh nước nhấp nhỉnh tràn bờ.  Bỗng dưng, Thẻo chạnh lòng. Để tay lên vai Tư, nó nói,  quả quyết:

 

- Tư à, đợi ít ngày nữa, khi được nuôi tôm, anh sẽ thưa với dì cho phép tụi mình lấy nhau…

 

Đặt tay lên tay Thẻo, Tư ròng ròng nước mắt. Lẳng lặng nó móc túi đưa cho Thẻo một  tờ giấy nhầu nát. Đó là bức thư của Thúy, đứa bạn nhờ có nó mà ngày xưa Sáu Nhêm bằng lòng cho Tư đi học cho đến khi xẩy ra cái tai ương khiến nó mồ côi cha.

 



[1] Mi

[2] Ta