Dịch và tán phét về thơ Prévert
Phan Huy Đường, Mai Ninh, Hàn Thuỷ, Nguyễn Hồng Nhung,
Phạm Ngọc Lân, Nam Dao, Nguyễn Trọng Khôi, Chân Phương
Les feuilles mortes
Oh, je voudrais tant que tu te souviennes, Des jours heureux quand nous étions amis, Dans ce temps là, la vie était plus belle, Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle, Tu vois, je n'ai pas oublié. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle, Les souvenirs et les regrets aussi, Et le vent du nord les emporte, Dans la nuit froide de l'oubli. Tu vois, je n'ai pas oublié, La chanson que tu me chantais... C'est une chanson, qui nous ressemble, Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais. Nous vivions, tous les deux ensemble, Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais. Et la vie sépare ceux qui s'aiment, Tout doucement, sans faire de bruit. Et la mer efface sur le sable, Les pas des amants désunis.
Souligné : PHD Poème de Jacques PREVERT / Musique de Kosma
|
Thuở lá chết
Ôi, ta quá mong em nhớ, Những ngày âu yếm bạn giữa chúng ta, Thuở ấy, đời đẹp hơn, Và mặt trời nóng bỏng hơn hôm nay. Lá chết nhiều không sao ôm hết, Em thấy không, ta đă không quên. Lá chết nhiều không sao ôm hết, Kỷ niệm và hối tiếc cũng thế thôi, Và gió Bắc cuốn chúng đi Vào đêm lạnh quên lăng. Em thấy không, ta vẫn không quên, Bài ca em hát cho ta… Đó là một bài ca giống chúng ta, Em, người yêu ta và ta, người yêu em. Chúng ta đă cùng sống, Em, người yêu ta và ta, người yêu em. Rồi cuộc đời chia ĺa những kẻ yêu nhau, Thật dịu dàng, không tiếng động. Và biển xoá đi trên cát, Dấu chân những t́nh nhân đă chia ly.
Nhấn mạnh : PHĐ Thơ Jacques PREVERT / Nhạc Kosma PHĐ "dịch" càn
|
Bài thơ này độc đáo ở chỗ nào ?
Thoạt đọc, ngôn ngữ giản dị, hồn nhiên, thậm chí trẻ con[1] (tu vois… tu vois…). Tầm thường như ngôn ngữ hàng ngày, toàn ư-chung. Thế mà tràn trề nhục cảm, biến thành thơ ! Lạ thật.
Ba câu sau tạo âm hưởng cho toàn bộ bài : lưu luyến, thiết tha, ám ảnh.
Oh, je voudrais tant que tu te souviennes,
…
Tu vois, je n'ai pas oublié.
…
Tu vois, je n'ai pas oublié,
…
Ba câu thơ như trên trời rơi xuống. Không hoà vần với câu trước, câu sau, nên lời và tồn tại… độc lập. Thế th́ c̣n "thi phú" ǵ nữa ? Nỗi nhớ nhung tha thiết ám ảnh này loang ra, lây vào tất cả những câu văn sau khiến chúng ngây ngất… nhớ, bất kể nhớ ǵ ! V́ sao thế ? V́ nỗi nhớ ấy phi thời gian, phi không gian.
Từ tant ở đây quả khó dịch. Nghĩa rất mơ hồ. Đại ư là nhiều. Nhiều bao nhiêu ? Không biết ! Có thể dịch thành quá nhiều ? Cũng được. Thí dụ : Ôi, ta quá muốn… Nhưng quá ở đây không có nghĩa là quá xá, quá độ, quá lâu, nên giảm bớt, mà có nghĩa… ngược lại : bao nhiêu cũng không đủ nói hết được ḷng ta ! Thế th́ nhiều hay quá ở đây không thuộc phạm trù số lượng, không chỉ là quan hệ về lượng của con người với không gian. Điều ta mong muốn không là thấy em trước mắt ḿnh. Ta muốn em… nhớ.
Từ tant kín đáo hoà âm với từ quand trong câu thơ sau. Quand ám chỉ thời gian. Thời điểm nào trong năm tháng một đời người ? Không biết… Bao lâu ? Không biết… Chỉ nhớ đó là thời… hạnh phúc ! Thế th́ không là quan hệ về lượng của con người với thời gian.
Tóm lại, đây không là quan hệ của con người với vật giới. Là quan hệ của ta với em, của ta với ḿnh, của ḿnh với nhau. Trong tâm khảm ta, tất cả những thứ khác – lá chết, gió Bắc, e tutti quanti – chỉ tồn tại và có ư nghĩa xuyên qua quan hệ ấy. Quan hệ ǵ ? Yêu. Người đời coi đây là bài thơ t́nh, quả không sai.
Quand lại kín đáo hoà âm với ce temps là. Ce và là thường được dùng để chỉ định một điều ǵ đích xác trong ngoại giới. Ở đây lại chỉ định một thời gian hàm hồ không có dấu mốc, không có độ dài trong Thời Gian… vật lư, chỉ có h́nh thái nhớ nhung. Thế th́, ở đây, dưới dạng ngôn ngữ, thời gian và nhớ nhung là… một. Thời gian là… nhớ nhung ! Nhớ nhung một cuộc sống đẹp. Trong bài thơ này. Nhớ nhung hiện sinh hoá thành ngôn từ, vật thể hoá thành âm thanh và kư hiệu, thành vết chân có thực của con người ở đời, trong thế giới thực và, biết đâu, có thể, trong ḷng người khác.
Temps lại kín đáo hoà âm với brûlant trong câu thơ tiếp : nóng bỏng. Thế th́, ở ta, thời gian chỉ là nỗi nhớ nhung nóng bỏng một cuộc sống hạnh phúc, một cuộc sống chỉ em mới có thể cho ta. Hè hè…
Ta khẳng định điều ấy với em :
Em thấy không, ta đă không quên.
…
Em thấy không, ta vẫn không quên,
Nghĩa là ta vẫn nhớ ? Không ! Nghĩa là, dù muốn, ta không thể quên ! Ở đời, ta nhớ nhiều thứ lắm. Chỉ có vài điều ta không thể quên. Em…
Đây là câu nói chuyện trực diện với người khác. Nó có nghĩa : ngay bây giờ em đang ở ta. Thế th́ điều ta khao khát khi ta quá mong em nhớ là : ta được… ở em như em ở ta. Ngay bây giờ. Măi măi.
Ta chỉ khao khát thôi, không nỡ xin. V́ ta đă dám làm.
Điên thật, hè hè…
Ôi Trời Xanh đểu giả, cho ta đủ thứ hay dở, sao nỡ không cho ta chút t́nh thơ ?
*
Như chuyện zui chơi chữ nghĩa trong một oép văn chương, Mai Ninh đă hiệu đính bản dịch trên như sau, chính xác và có nhạc điệu hơn :
Les feuilles mortes
Oh, je voudrais tant que tu te souviennes, Des jours heureux quand nous étions amis, Dans ce temps là, la vie était plus belle, Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle, Tu vois, je n'ai pas oublié. Les feuilles mortes se ramassent à la pelle, Les souvenirs et les regrets aussi, Et le vent du nord les emporte, Dans la nuit froide de l'oubli. Tu vois, je n'ai pas oublié, La chanson que tu me chantais... C'est une chanson, qui nous ressemble, Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais. Nous vivions, tous les deux ensemble, Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais. Et la vie sépare ceux qui s'aiment, Tout doucement, sans faire de bruit. Et la mer efface sur le sable, Les pas des amants désunis.
Souligné : PHD Poème de Jacques PREVERT / Musique de Kosma
|
Những chiếc lá chết
Ôi, ta mong biết bao em c̣n nhớ, Những ngày hạnh phúc thời chúng ta là bạn, Thuở ấy, đời đẹp tươi hơn, Và mặt trời bỏng gắt hơn hôm nay. Lá chết rơi nhiều không sao hốt hết, Em thấy không, ta đă không quên. Lá chết rơi nhiều không sao hốt hết, Kỷ niệm và hối tiếc cũng thế, Theo gió bắc cuốn đi, Trong đêm lạnh của lăng quên. Em thấy không, ta vẫn nhớ, Bài ca em hát cho ta … Đó là một bài ca giống chúng ta, Em, người yêu ta và ta, người yêu em. Hai chúng ḿnh đă từng chung sống, Em, người yêu ta và ta, người yêu em. Rồi cuộc đời tách ĺa những kẻ yêu nhau, Nhẹ nhàng, không tạo ra tiếng động. Và biển xoá đi trên mặt cát, Dấu chân những t́nh nhân đă chia ly.
Nhấn mạnh : PHĐ Thơ Jacques PREVERT / Nhạc Kosma PHĐ "dịch" càn Mai Ninh hiệu đính
|
*
Hàn Thuỷ cũng tham gia cuộc zui.
Lời Việt cho Les feuilles mortes
Hàn Thuỷ
Sau bản dịch bài thơ Prévert này của Phan Huy Đường, tại hạ tự nhiên có cao hứng dịch lại thành lời Việt cho bài hát, v́ bài « Les feuilles mortes » ấy không chỉ là một bài thơ. Âu cũng là dịp đầu năm khai bút. Sau đó cũng xin dông dài thêm vài chuyện, vọng cổ cho vui...
Mùa lá chết
Người ơi, nhớ người, tôi xin người nhớ ngày xưa,
Thời hạnh phúc ḿnh chung sống t́nh bạn đầm ấm,
Ngày xưa ấy đời tươi thắm đẹp hơn bao giờ,
Và nắng trưa nồng cháy, nay chừng đă lạnh câm.
Mùa rơi lá nhiều rơi chết tàn úa đầy sân
Tôi nhớ, thấy không người, vẫn nhớ.
Mùa lá rơi nhiều lá rơi tàn úa vô vàn
Mà những kỷ niệm tiếc nuối th́ cũng cầm như...
Để rồi cho gió bắc cuốn đi về xa,
Vào trong đêm lạnh giá của lăng quên.
Tôi nhớ, thấy không người, vẫn nhớ,
Nhớ khúc ca khi người hát tặng tôi...
Một bản t́nh ca, là ảnh h́nh hai ta,
H́nh ảnh t́nh yêu, của người và tôi.
Một thời c̣n nhau, một trời một đôi,
Người là t́nh yêu, và tôi yêu người.
Nhưng đời chia ĺa những người yêu nhau,
Êm đềm sâu lắng, chẳng tiếng xôn xao.
Và trên băi cát dạt dào biển sóng xoá mờ,
Những bước chân nhân t́nh cách ĺa đau.
Nhạc: Kosma, lời: Prévert,
bản dịch lời: Hàn Thuỷ
…chuyện cũng đă từ hơn 60 năm rồi. Cả hai đều rất nổi tiếng. Prévert viết lời và Kosma viết nhạc, chung, chứ không hẳn là nhạc hay thơ có trước. Cặp này (trong một thời, từ 1939 đến 1951, sau đó họ không cộng tác với nhau nữa) cộng lại cũng sánh như một Bob Dylan hay một Trịnh Công Sơn : lời và nhạc quyện vào nhau không thể chia cắt. Và điều quan trọng là họ đều thể hiện t́nh cảm của nhiều người trong thời họ đang sống, và đều được đón nhận nồng nhiệt như nhau.
Vậy thời của Prévert, Kosma và bài hát này ? Đó là vào đầu năm 1945 – và ta nhớ, tháng 8 năm 1944 Paris mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức Quốc Xă. Trước đó Kosma đi vào kháng chiến bí mật và Prévert hoạt động công khai, nhưng cũng như nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác trong vùng tạm chiếm, ông tỏ thái độ ủng hộ kháng chiến chống Đức một cách gián tiếp khéo léo, do đó t́nh bạn của họ không hề sứt mẻ, và khi Kosma từ kháng chiến về họ hợp tác lại với nhau ngay –, bài hát này là một phần của ca kịch « Le rendez vous » (cuộc hẹn ḥ), cũng do hai người cộng tác, như nói trên; sau họ chuyển thể thành phim « Les portes de la nuit » (ngưỡng cửa của đêm), do Marcel Carné đạo diễn, nhạc Kosma, đối thoại và lời nhạc Prévert. Không cần đi vào chi tiết của hai bản ca kịch hay phim này, chỉ biết là bài hát trong phim do Yves Montand thể hiện, và từ đó về sau nó nổi tiếng trên cả thế giới, cũng như bài hát khác trong phim là « Les enfants qui s'aiment » (Những đứa trẻ yêu nhau).
*
Bây giờ thử suy diễn tại sao bài hát đă được đón nhận rộng răi như thế. Trước hết, tuy khởi đi từ một hoàn cảnh cụ thể, nhưng nó đă vượt lên để trở thành phổ quát, do đó nó sống qua thời gian và không gian. Sống qua thời gian và không gian v́ thời gian và không gian ấy đă trở vào trong nội tâm, đă trở thành một t́nh cảm trong nội tâm, như bang chủ Cái bang AMVC (PHĐ) viết « thời gian và nhớ nhung là… một. Thời gian là… nhớ nhung ! ». Nhưng vượt qua cũng là một phủ định biện chứng (hè hè !) và da thịt của cuộc phủ định này đau đớn lắm. Thời gian thực của nhớ nhung là thời gian trước chiến tranh, và sự phủ định thực của thời gian đó là chiến tranh, đối với những con người b́nh thường giản dị – người anh hùng hay triết gia có thể không coi chiến tranh là sự triệt tiêu hạnh phúc của ḿnh.
Do đó lời của bài thơ này rất giản dị, rất đời thường. Chỉ có ba ẩn dụ, một là « lá chết », hai là « những dấu chân trên cát », cả hai tương đối phổ biến. Ẩn dụ thứ ba, « gió bắc », sẽ xin đề cập sau. « Lá chết» th́ chắc chắn đă có từ lâu trên cả địa cầu, và tượng trưng cho buồn đau nhung nhớ. Ở đây đau thương này gợi đến rất cụ thể hàng triệu người đă chịu chết hay mất mát trong chiến tranh, bởi vậy Prévert không viết kiểu lá thu vàng bay lất phất qua song cửa... mà viết: lá chết... « se ramassent à la pelle » (nghĩa đen : phải hốt đi bằng xẻng), thành ngữ thông thường của tiếng Pháp, có nghĩa: vừa rất nhiều, vừa tàn tạ, không có giá trị ǵ cả. C̣n về ẩn dụ thứ hai th́ – tại hạ không biết đủ để khẳng định điều này – có thể « dấu chân trên cát » là một sáng tạo rất đẹp của Prévert, sau đó mới trở thành phổ biến; nếu thế, quả là một kỳ diệu của thiên tài : cái đẹp vừa được sáng tạo bỗng lập tức thành quen thuộc v́ cảm nhận được ngay. C̣n lại th́ sao ? chỉ có người yêu tôi và tôi yêu người, ngày xưa ḿnh hạnh phúc, vân vân... phức tạp hơn một chút th́ thấy ngày xưa mặt trời nóng bỏng hơn.
« Thế mà tràn trề nhục cảm, biến thành thơ ! » (PHĐ). Sao vậy ? v́ ở đây có một tứ thơ chủ yếu khác : sự ca ngợi t́nh yêu một cách đơn giản trần trụi « tôi yêu người, và người yêu tôi » kiểu từ thượng cổ tới nay ai cũng nói được đó, lại là một ẩn dụ thứ tư nữa, chính ẩn dụ đó đă đi vào ḷng người đang đau đớn. Tứ thơ này kỳ lạ ở chỗ, thường th́ ẩn dụ là một h́nh ảnh nào đó được dùng để kín đáo gợi lên một ư tưởng hay cảm xúc chỉ có một liên hệ mảnh mai với nó; vậy mà ở đây: một câu nói thông thường, nếu đọc và nghe tỉnh táo trong một văn cảnh khác sẽ thấy gần như thô lỗ, lại gợi lên... chính nó, t́nh yêu, một cách mănh liệt, tràn đầy, trong ḷng mọi người.
V́ nó c̣n là sự phủ định chiến tranh, phủ định số phận nghiệt ngă làm nên cuộc chia ly, mà bài thơ chỉ nhắc đến như « gió bắc » và « đời ». Sự chối từ đó làm nên điều kỳ diệu của ngôn ngữ: nói « gió bắc » – ẩn dụ kín đáo về quân đội Đức Quốc Xă, nước Đức ở phía đông bắc của nước Pháp – cuốn đi kỷ niệm và tiếc nuối vào quên lăng, thực ra là v́ không muốn nói « gió bắc » cuốn đi đời sống ngày xưa, làm cho nó thành kỷ niệm và tiếc nuối. Chứ c̣n, trong một cuộc sống hạnh phúc, có đâu thời gian cho kỷ niệm và tiếc nuối. Và rồi « gió bắc » ở đoạn đầu đă trở thành « đời » một cách chung chung trong điệp khúc, như « số phận », « định mệnh »... như điều luôn luôn hiện hữu trong mỗi đời người.
Nhạc và lời bốn câu trong đoạn giữa của bài hát da diết nhất và có kịch tính cao nhất, chính v́ nó thể hiện biện chứng tâm lư « biết nhưng không muốn biết nữa » này, nhất là ở hai câu giữa : quên và không quên đối chọi nhau đột ngột. Quên là muốn quên hết khung cảnh quá khứ và lư do làm cho ḿnh đă mất hạnh phúc, nhớ là chỉ nhớ tới t́nh yêu thôi, t́nh yêu trần trụi trong tiếng nhạc ngân lên khẳng định trong bốn câu sau đó. Và những lời thủ thỉ giữa một người với một người trở thành tiếng ngân vang tha thiết với đời trong điệp khúc của bài hát, mà âm điệu thay đổi hoàn toàn. Nếu trong nửa đầu ca sĩ nói với người yêu – có thể đang xa cách, có thể không xa cách nhưng do hoàn cảnh đă đổi thay không yêu nhau nữa, có thể đă chết – trong tâm tưởng của riêng ḿnh, với giọng điệu kể lể rất riêng tư thân mật; th́ trong nửa sau ca sĩ vừa nói với người đă yêu, vừa đồng thời nói với mọi người, « người và tôi » trở thành « những người yêu nhau », ngôi thứ ba.
Tóm lại về sự trần trụi phổ quát của lời bài hát : Người kia đă chết ? không biết ! Người kia ở xa ? không biết ! Người kia đă đổi thay ? Không biết ! Ai gây ra cuộc chia ly, biết nhưng không muốn biết nữa. Ngày xưa chúng tôi/ta yêu nhau, và bây giờ tôi chỉ muốn nhớ lại t́nh yêu ấy, thế thôi. Và cuối cùng chấp nhận, ngay cả nỗi nhớ về t́nh yêu đó, nỗi nhớ đă được « vật thể hoá thành âm thanh và kư hiệu, thành vết chân có thực của con người ở đời » (PHĐ), cũng đang được sóng biển xoá đi... Nhưng xoá đây nằm ở th́ hiện tại, đang xoá, có nghĩa là không chắc xoá được ! bốn câu kết cực kỳ đẹp: trách móc số phận, buồn đau, cam chịu và hy vọng cùng hiện diện.
Thế rồi khắp nơi, không chỉ ở Pháp – và không chỉ sau chiến tranh thứ hai – người ta hát và khiêu vũ trên nền một bản nhạc buồn, khi thủ thỉ khi da diết. Một bài hát khẳng định t́nh yêu với lời lẽ dung dị của đời thường. Nhưng hát được như thế là khởi đầu của giải thoát khỏi thảm kịch – bất kể thảm kịch nào – và khẳng định quyền có hạnh phúc của những con người b́nh thường. Nhưng người ta trên thế giới khi phóng tác lại lời thường không diễn tả hết những ẩn ư và cảm xúc của nguyên bản. Có sao đâu ! Cảm xúc tập thể của một cộng đồng ở một thời đại không giống như của một cộng đồng khác ở một thời đại khác.
Nếu muốn, mời bạn đọc nghe Thái Thanh hát lời Việt do Phong Vũ đặt từ năm 1957, trong đó ẩn dụ « muà thu lá vàng bay... » đă lấy lại h́nh ảnh buồn man mác muôn thủa của nó. Cũng thế, xin nghe thêm « Autumn leaves » (lá mùa thu), bản tiếng Mỹ – chỉ dùng lại điệp khúc thôi – do Doris Day hát năm 1956, và Eva Cassidy hát, qua phong cách Jazz, 50 năm sau. Cuối cùng xin giới thiệu Phạm Ngọc Lân hát cả lời Pháp lẫn lời Việt do ông phóng tác, và tự đệm đàn guita rất điêu luyện (tại hạ không quen ông, chỉ bất ngờ thấy trên mạng bản vidéo khá hấp dẫn này khi đi t́m thông tin về bài hát).
Bạn đọc có thể xem nguyên bản nhạc và lời ở tài liệu đính kèm.
*
Vài ḍng về việc dịch, dịch khởi đi từ cảm hứng, rồi phần lớn về sau là lao động chữ nghĩa, khi đó phải loay hoay chọn lựa và sắp xếp từ ngữ... gần như giải một bài toán khô khan. V́ vậy, theo thiển ư, việc dịch thơ chỉ may ra đạt nếu không khi nào quên cảm nhận (xin dùng chữ này để chỉ chung ư tưởng và cảm xúc nhận được). Cảm nhận phải bao trùm bản dịch thơ, ưu tiên hơn sự trung thành với ngôn từ. Dịch lời cho một bài thơ/nhạc nhuần nhuyễn như bài này th́ cảm nhận đến từ cả nhạc lẫn lời – có khi các ca sĩ lớn cũng có phần ảnh hưởng. Bạn sẽ thấy Yves Montand không hát mà chỉ đọc tám câu thơ đầu, và... ối giời ! nụ cười của Juliette Greco khi chuyển sang điệp khúc.
Cảm nhận đó (dĩ nhiên chủ quan) vừa được tŕnh bày ở trên.
Tại hạ, khi dịch để hát được bằng tiếng Việt, cố theo sát cả âm điệu lẫn ư tưởng và t́nh cảm từ đó toát ra, mặc dù biết rằng như thế là « quy h́nh tṛn thành h́nh vuông ». Không thể không có khuyết điểm, đặc biệt là với câu hỏi « tiếng Việt này có là tiếng Việt không ? » Xin bạn đọc xét xem và lượng thứ. Nhưng có một điều có lẽ thấy lạ tai, đó là hai chữ « người », và « tôi ». Chỉ xin nói đó là lựa chọn của tại hạ từ trước khi bắt đầu.
Hàn Thuỷ
*
Và đây là bài thơ của chính Kosma trong tiếng mẹ đẻ cho khúc nhạc của chàng, do Nguyễn Hồng Nhung dịch :
Một bài ca nghe cuối năm
(Sống trong thế kỷ XX đầy biến động của các loại chủ nghĩa gây đau thương cho con người, thế gian này ai không mơ tới khát vọng YÊU bằng muôn nẻo ngôn ngữ Bábel?
Bài thơ Les Feuilles Mortes để đời của thi sĩ Pháp lừng danh Jacques Prévert được ông hoàng nhạc sanzon người Hungary Kozma József phổ nhạc -khi sang Paris trốn nạn diệt chủng Do thái đông Âu.
Bài hát Những chiếc lá rơi giờ đây vang lên tha thiết hơn bao giờ hết, v́ nhân loại vẫn chưa gặp khả năng đi hết khát vọng YÊU!
Nguyễn Hồng Nhung không biết tiếng Pháp -thật tiếc- để có thể dịch từ bản gốc lời bài ca này. NHN có xem bản dịch bài thơ tiếng Pháp từ Googl e- khá nhiều sự khác biệt so với bản tiếng Hung.
Nhưng than ôi, computer không thể yêu thay người - NHN đành chỉ làm điều nó có thể làm được : dịch từ thứ tiếng nó biết, tiếng Hungary.
Nhưng bài ca này ngân bên tai độc giả người Việt sẽ mang linh hồn của ba thứ tiếng -trong muôn vàn linh hồn ngôn ngữ Babel.)
LES FEUILLES MORTES
http://www.youtube.com/watch?v=JWfsp8kwJto&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=J0EjWWlOCUY&feature=related
Kozma József (Hungary)
Hulló levelek
Szemébe mondtam , hogy nem szeretem
Vártam, hogy erre majd mit mond nekem
Gyötörtem, kínoztam szüntelnül.
Féltékeny voltam oly' kegyetlenül
Hazudtam néki, hogy más várt
Ha este randevúnk volt
Szerettem volna ha könnyet ejt tán'
De Ő csak nevetve fölém hajolt
S azt mondta :szeretsz te engem
Szíved enyém ,tudom én
S én ellöktem magamtól durván
Nem szólt egy szót sem csak nézett rám
A két szemét még most is látom,
Könny nélkül sírt, csak nézett vádlón.
Egy percig állt, sebzetten, bénán,
Nem szólt egy szót, csak elment némán.
Hervadt falevél hullt le a fákról,
Elvitte őt az őszi szél.
Mégis minden este vissza - vissza várom,
Mert szívem csak őérte ég
Elmult a tavasz és elmult a nyár
Szomorú szívem csak őreá vár
Beláttam, hibáztam, megbántam én
Él bennem mégis egy halvány remény
Visszetér hozzám , ha eljön az ősz
És rájön, hogy mégis szeretem Őt
Szerelmünk emléke mindent legyőz
S még jobban szeretem mint azelőtt
Már érzem csókját a számon
És látom lágy mosolyát
A vétkemet százszor is bánom
És várom hívó szavát
Magamba járok az őszi ködben,
Vállamra hervadt falevél röppen.
Egy régi nótát dúdolok halkan,
Szívem csak ott van ahol te vagy.
Talán csak megszokás viszi a lábam
Egy kis pad felé, a lomb alatt,
Ahol összebújva ültünk még a nyáron,
És mosolyogva néztél reám.
NHỮNG CHIẾC LÁ RƠI
Tôi nói vào mắt nàng, ta không yêu em,
và chờ đợi câu trả lời sẽ đến
tôi đầy đọa, nghiền rứt nàng không nghỉ
ôi ḷng ghen đâu giới hạn, bạo tàn.
Tôi dối nàng, có người thương đang đợi
trong hẹn ḥ buổi tối hai ta,
tôi những muốn nh́n nước mắt rơi, có lẽ
nhưng Nàng chỉ cười, âu yếm kề bên
nàng th́ thào: anh yêu em
trái tim anh là của em, em biết.
Thô bạo lạnh lùng tôi đẩy nàng ra
không một lời, ngước nh́n tôi lẳng lặng
đôi mắt nàng, tôi vẫn thấy lúc này
khóc không lệ, chỉ cái nh́n kết tội
sững phút giây, đau đớn, lặng câm
không một lời nàng rảo bước âm thầm.
Những chiếc lá úa héo tàn từ cây rụng
gió thu vàng đă cuốn em đi.
Nhưng mỗi tối tôi vẫn chờ vẫn đợi
trái tim buồn chỉ cháy đỏ bởi em.
Mùa xuân đă qua, rồi mùa hè cũng hết
trái tim buồn chỉ ngong ngóng chờ em.
Tôi đă thấy tôi sai lầm, tôi làm nàng đau khổ
váng vất đâu đây tia hy vọng lé loi
nàng sẽ về bên tôi khi thu vàng sẽ đổ
sẽ nhận ra, tôi vẫn chỉ yêu Nàng.
Kư ức t́nh yêu chúng ḿnh mạnh hơn tất cả
ta sẽ yêu em hơn gấp bội ngày xưa
đôi môi anh cảm nhận vị hôn em thuở trước
nụ cười dịu dàng phảng phất mắt anh
trăm ngh́n lần tội anh không tha thứ
nhưng anh vẫn chờ lời nhắn rủ thiết tha.
Lang thang một ḿnh màn sương thu hương khói
lá úa vàng chạm vai đẫm bay bay
nho nhỏ trong tôi ŕ rầm bài ca ngày ấy
trái tim này chỉ đọng chốn có em.
Bước chân âm thầm thói quen đưa dẫn
đến chiếc ghế dài, ṿm lá thân thương
nơi chúng ḿnh rúc vai nhau cuối hè phai ấp ủ
và em cười, đôi mắt ngước nh́n anh.
NGUYỄN HỒNG NHUNG dịch từ bản tiếng Hung
(29. Tết Tân Măo. 2011.)
Tiểu sử của Kosma :
ÔNG HOÀNG CỦA D̉NG NHẠC SANZON:
KOZMA JÓZSEF( JOSEPH COSMA)
Kozma József sinh ngày 22 tháng 10 năm 1905 tại Buadapest- Hungary. Gia đ́nh ông sống tại một phố cổ Buda, số nhà 27 phố Iskola, tại đây cha mẹ ông mở một trường dạy đánh máy và học chữ tốc kư. Kozma có một người em trai tên là Ákos. Năm 1944 lũ phát xít đă xử bắn mẹ và em trai Kozma József cùng với nhiều người Do thái khác bên bờ sông Đanuưp.
Bà ngoại của Kozma từng là học tṛ của nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary Liszt Ferenc khuyến khích cháu ḿnh theo học piano từ lúc lên 5 tuổi. Năm 11 tuổi Kozma viết bản mở màn ( ouverture) cho opera đầu tiên.
Tốt nghiệp phổ thông xong ông theo học tại Viện hàn lâm âm nhạc- cùng thời với nhạc trưởng Hungary Ferencsik János và nhà soạn nhạc Hungary Farkas Ferenc nổi tiếng- Kozma József học soạn nhạc và chỉ huy dàn nhạc từ một trong những bậc thày âm nhạc vĩ đại của thế kỷ XX, nhà soạn nhạc Hungary Weiner Leo.
Sau khi tốt nghiệp Viện hàn lâm âm nhạc, khoảng 1926-1928 ông làm trợ lư chỉ huy dàn nhạc và korrepetitor trong nhà hát Opera Budapest. Bên cạnh đó ông làm việc cho cả nhà hát kịch avant-gárd, ông viết nhạc cho dàn diễn viên múa kịch câm( movement).
Năm 1928 như một nhạc trưởng ông nhận được một học bổng tại nhà hát Opera Đức. Tại trung tâm về cuộc sống tinh thần Berlin ông gặp những nghệ sĩ có ảnh hưởng đặc biệt đến cuộc đời ông sau này . Ông làm quen và làm việc cùng ông bác, anh của mẹ Moholy- Nagy László( một trong những người sáng lập nhóm Bauhaus)
Ông kết bạn với Bertolt Brech, Hanns Eisler, Kurt Weill, Capa ( với Friedmann Endre, với Éva Besnyo, sau này là những nhà nhiếp ảnh nổi tiếng thế giới) Dưới ảnh hưởng của họ, Kozma từ bỏ nhà hát Opera Berlin sang gia nhập với nhóm nghệ sĩ lang thang của Brecht và cùng cộng tác với Hann Eisler và Kurt Weill. Tại Berlin ông làm quen với nữ nghệ sĩ dương cầm Lilli Apel người vợ đầu tiên của ông.
Năm 1933 Kozma József chạy trốn khỏi Berlin v́ Hitler, cùng vợ- không một xu dính túi và không biết một chữ tiếng Pháp nào- vợ chồng ông sống lưu vong ở Paris. Măi tận năm 1949 ông mới được nhận quốc tịch Pháp. Trong những năm lưu vong đầu tiên ông đệm nhạc thuê cho các buổi diễn ba lê, vợ ông dạy dương cầm thuê. Sau đó ông làm quen và bắt đầu có quan hệ với đạo diễn phim Jean Renoir con trai họa sĩ Renoir.
Nghệ thuật phim ảnh Pháp lên đến đỉnh cao vào những năm ba mươi của thế kỷ, trong đó có phần đóng góp rất lớn cho nhạc phim của Kozma József. Bản nhạc phim đầu tiên của ông viết dựa theo thơ của nhà thơ Pháp Florelle dala Prévet. Năm 1936 ông viết nhạc cho bộ phim của Renoir có nhan đề „ Tội lỗi của Lange”.
Chẳng mấy chốc ông trở thành nhà soạn nhạc phim thường xuyên cho giới điện ảnh Pháp, tên ông gắn liền với nhạc của hơn năm mươi bộ phim Pháp như: „ Ảo tưởng Vĩ đại”( la Grande Illusion, 1937) phim” Thành phố của những t́nh yêu” (Les Enfants du Paradis,1945) phim Marseillaise, 1937, và rất nhiều bộ phim nổi tiếng khác đă gắn liền với tên tuổi đă trở nên nổi tiếng thế giới của Kozma József- hay tiếng Pháp là Joseph Kosma. Ai mà không biết đến bộ phim cực kỳ nổi tiếng” Những cánh cổng của đêm”( Les portes de la nui, 1946)?
Cuộc cách mạng của ḍng nhạc Sanzon
Từ năm 1935 trở đi ta có thể nói đến một giai đoạn mới của nhạc sanzon Pháp. Cái ngày này chúng ta gọi là đặc thù của nhạc sanzon Pháp, ra đời trong khoảng thời gian ấy. Và phần lớn do chính công sức của Kozma József. Năm 1935 ông làm quen với nhà thơ Pháp nổi tiếng Jacques Prévert, và phổ nhạc khoảng tám mươi bài thơ của J. Prévert.
Thế nhưng những bài hát này không được tŕnh diễn công khai cho đến tận 1945, bởi Kozma József là người Do thái, ông sống bất hợp pháp trong những năm 1940-1944, viết nhạc bằng tên giả và các nhạc phẩm của ông không được phép tŕnh diễn.
Nhưng sau chiến tranh lập tức các ca sĩ thời thượng và các nghệ sĩ nổi tiếng nhất đă lập tức biểu diễn các nhạc phẩm của ông, như Yves Montand, Edith Piaf, Juliette Gréco và anh em nhà Jacques( Les Fréres Jacques). Trong các bản sanzon của Kozma điểm mới là hai câu truyền thống trong cấu trúc điệp khúc tăng tính tự do cho lời bài hát, c̣n nhạc cụ sử dụng thuần túy được coi như một cuộc cách mạng thời bấy giờ.
Nơi gặp gỡ ưa thích của những nhân vật hiện sinh nổi tiếng của Paris( Simone de Beauvoir, Jean-Paul Sartre, Jacques Prévert và nhiều người khác) là Café Flore, nơi lần đầu tiên Juliette Gréco ca những bài ca của Kozma józsef ( ví dụ: Nàng thơ của SaintGermain-des-Prés ) đây cũng là nơi biểu diễn của các ca sĩ sanzon nổi tiếng như Yves Montand và Edith Fiaf. Năm 1951 Kozma ly hôn với người vợ đầu tiên Lilli và cắt đưta quan hệ với Jacques Prévert.
Nhạc viết cho Opera, operett, kịch câm của Kozma József
Nhạc phim khiến tên tuổi của Kozma József nổi tiếng thế giới, nhưng tác phẩm riêng của ông c̣n giàu có hơn rất nhiều. Bên cạnh nhạc phim và sanzon, ông viết nhạc ba lê,kantata, ông viết ba vở opera, nhạc thính pḥng, nhạc dành cho piano, ông viết operett.
Năm 1962 tại Budapest tŕnh diễn vở Opera” Những người dệt lụa xứ Lyon” của Kozma. Ông viết nhạc đệm cho nghệ sĩ kịch câm Marcel Marceau, viết nhạc đệm cho vở diễn của Jean-Paul Sartre, ông phổ nhạc cho thơ Apollinaire và Aragon. Lần cuối cùng, khi đang viết nhạc cho một vở hài kịch theo yêu cầu của nhà hát Opera Lyon, ông bị nhồi máu cơ tim và mất.
Ông mất ngày 7. tháng Tám năm 1969 trong căn nhà tại la Roche Guyon ngoại ô Paris. Ông sống tại đây với người vợ thứ hai (Marie Merlin). Ông được chôn cất tại nghĩa trang Montmartre ở Paris. Kozma József không có con với cả hai người vợ, v́ vậy di sản âm nhạc của ông nằm trong Viện Nizza, c̣n chiếc dương cầm của ông năm 1995 rơi vào sở hữu của một người hâm mộ Kozma. Ở Paris người ta thành lập và duy tŕ ”Hội những người bạn của Kozma”, c̣n căn nhà của Joseph và Marie Kosma ngày nay có thể viếng thăm thường xuyên tại La Roche-Guyon.
Nguyễn Hồng Nhung sưu tầm và dịch từ tiếng Hungary
( 2011.02.27)
*
Góp ư của Phạm Ngọc Lân
Tôi (PHĐ) đă gửi bản dịch của tôi cho vài oép bạn trước khi công bố nó trên oép ămvc. Những oép sau đă đăng :
Sáng nay, tôi nhận được meo của vanchuongviet.org chuyển lại bài góp ư sau của Phạm Ngọc Lân. Rất lư thú. Xin đăng lại :
Thưa ban biên tập vanchuongviet.org,
Tôi gửi vài lời góp ư này về bài viết "Dịch và tán phét về thơ Prévert" đăng hôm nay, 27-2-2011. Mong ban biên tập vcv gửi đến hai tác giả Phan Huy Đường và Hàn Thuỷ, và nếu được, đăng lên vcv để góp vui thêm vào công việc lư thú của hai người mà tôi được hân hạnh biết ở Paris. Tôi hiện nay sống ở Toulouse, Pháp.
Thân mến,
Phạm Ngọc Lân
-----------------------------
Góp ư với bài viết "Dịch và tán phét về thơ Prévert"
Rất vui được tác giả Hàn Thuỷ giới thiệu tôi với độc giả của vanchuongviet.org trong bài viết về ca khúc Les Feuilles Mortes, lời cùa Prévert, nhạc của Kosma. Sở dĩ được hân hạnh này v́ tôi cũng có viết lời Việt cho bài hát này, và có hát với đàn ghi-ta đăng trên YouTube, Hàn Thuỷ t́nh cờ nghe được.
Và cũng qua bài viết, lại được biết thêm là Kosma cũng có viết lời tiếng Hungary cho bản nhạc này, qua lời dịch của Nguyễn Hồng Nhung.
Khi đọc bài thơ của Prévert đăng trên đầu bài viết, câu thứ hai "Des jours heureux quand nous étions amis", với từ "quand" được tác giả Phan Huy Đường nhấn mạnh, tôi hoảng quá ! V́ tôi vẫn hát "où" thay v́ "quand". Mà quả thật, từ "quand" ở đây chỉ thời gian, từ "où" chỉ không gian, như vậy từ "quand" chính xác quá rồi c̣n ǵ nữa! Nhưng không lẽ tôi hát sai từ bao nhiêu năm trời mà không biết?
Từ "quand" được PHD nhấn mạnh là v́ sau đó, tác giả nói đến vần giữa các từ "tant", "quand" và "temps-là", như vậy th́ quả thật là cái "quand" này quan trọng trong mạch thơ của Prévert, không phải chuyện đùa!
Tôi vội vàng lên mạng nghe lại Montand hát ở Olympia, tám câu đầu Montand chỉ đọc thôi, và... ông đọc là "où". Rồi vào nghe Juliette Gréco hát ở Berlin năm 1967, với đàn ghi-ta đệm, Juliette cũng hát "où". Tôi sực nhớ ra là hồi đó, tôi có một bản photocopy của bài hát này, lục lại trong thùng sách nhạc cũ, t́m ra được nó, mừng quá. Bản in năm 1947, nhà xuất bản Enoch & Cie, Paris, với h́nh Yves Montand c̣n trẻ măng ngoài b́a. Và bản in cũng ghi "où", chứ không phải "quand".
Như vậy th́ PHD, cũng là chỗ tôi quen biết, "phịa" ra từ "quand" này để "tán phét" như trong tựa đề của bài viết chăng?
Phải nói thêm rằng ngôn ngữ Pháp có những "quái đản" như trường hợp này. Rơ ràng bối cảnh là thời gian, nhưng lại dùng "où" là tiếng dùng cho không gian. Mà không phải chỉ có trong bài thơ này thôi đâu! Vả lại, khi tôi hát thử với từ "quand" th́ câu hát nghe không êm xuôi như khi hát với từ "où", là một từ rất khiêm tốn trong cách phát âm, h́nh như có mặt ở đó thật, nhưng chỉ muốn cho người ta lướt qua ḿnh trong câu hát...
Bài viết cũng nhắc đến Mai Ninh, một người bạn khác của tôi, được giới thiệu "đă hiệu đính bản dịch trên như sau", nhưng sau đó, không thấy bản dịch này đâu cả, chỉ đăng có bài tiếng Pháp thôi.
Tôi xin được viết lại đây lời tiếng Pháp in trong ấn bản trên, để thấy những chỗ khác biệt (đặc biệt là "et je t'aimais"). Và cũng viết ra đây lời tiếng Việt để hát với giai điệu của Kosma. Xin nhấn mạnh rằng tôi không t́m cách "dịch" bài thơ tiếng Pháp của Prévert, cũng không có ư định viết một bài thơ tiếng Việt. Tôi chỉ viết lời cho một bản nhạc có sẵn. Lấy ư tổng quát của Prévert, và viết ra một bản tiếng Việt có thể hát được, không bị gượng ép bởi những cái "lặt vặt làm khổ ta" như sắc, huyền, hỏi, ngă, nặng.
Les Feuilles Mortes – Mùa Thu Lá Úa
Nhạc của Joseph Kosma, lời của Jacques Prévert, 1945
Oh ! je voudrais tant que tu te souviennes
Des jours heureux où nous étions amis
En ce temps-là la vie était plus belle
Et le soleil plus brûlant qu'aujourd'hui
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Tu vois, je n'ai pas oublié
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Et le vent du nord les emporte
Dans la nuit froide de l'oubli
Tu vois, je n'ai pas oublié
La chanson que tu me chantais
***
C'est une chanson qui nous ressemble.
Toi, tu m'aimais et je t'aimais
Et nous vivions tous deux ensemble
Toi qui m'aimais, moi qui t'aimais.
Mais la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis
----------
Mùa thu lá úa
Lời Việt của Phạm Ngọc Lân
Thầm mơ ước người xưa có c̣n nhớ thời thơ ngây
Đời tươi thắm ḿnh say đắm cùng xây mộng ước
Ngày xưa ấy ḿnh vui sống hạnh phúc sum vầy
Và nắng chan hoà ấm ngôi nhà với ngàn hoa
Mùa thu lá vàng bay úa tàn khắp trời thênh thang
Kỷ niệm xưa vẫn c̣n anh vẫn nhớ
Mùa lá thu vàng úa bay tàn măi chân trời nào
Và tiếc thương rồi cũng bay theo lá mà thôi
Rồi cơn gió cuốn mang theo t́nh ta
Vào đêm quên lăng... đêm giá băng
Em thấy đó, anh vẫn c̣n ghi nhớ măi
Tiếng hát em, câu ca riêng tặng anh
***
Bài ca năm đó, ḿnh yêu nhau thắm thiết
Mùa thu lá úa, kỷ niệm ngày xưa
Rồi qua cơn gió, làm bay đi lá úa
Kỷ niệm ngày xưa, theo gió xoá nhoà
Đời chia cắt t́nh đôi ta
Xoá mờ trong trí nhớ
Bao kỷ niệm xưa
Cả những ước mơ
Và trên cát, vết chân đôi nhân t́nh đă qua
Biển sóng xoá tan đi vết t́nh ta...
http://www.youtube.com/user/phamjngocjlaan#p/u/22/mx6abflGkAI
Phạm Ngọc Lân
Toulouse, 27 thàng 2, 2011
*
Tôi (PHĐ) đă trả lời vanchuongviet.org như sau :
Anh Hoà thân mến,
Anh nên đăng bài đính chính của Phạm Ngọc Lân. Đầu tháng 3, khi đăng bài của tôi trên ămvc, tôi sẽ đăng luôn bài của Phạm Ngọc Lân.
Mấy lời đính chính này chắc chắn là có cơ sở :
a/ Bản thân tôi cũng nhớ như Phạm Ngọc Lân v́ tôi nhớ hai bài hát của Y. Montand và J. Greco.
b/ Nhà xuất bản Enoch & Cie đă đăng năm 1947, thế nào J. Prévert cũng đă có duyệt. Với truyền thống xuất bản ở Pháp, sửa một từ trong một bài thơ không là chuyện đùa.
Bản tôi dùng, tôi t́nh cờ gặp trên oép. Tôi ngạc nhiên phát hiện nó khác trí nhớ của tôi. Tôi vốn không tin trí nhớ của tôi cho lắm và tôi biết, lúc phổ nhạc, đôi khi người ta sửa vài từ để dễ hát. Tôi nghĩ, người yêu thơ Prévert tới mức đăng tải trên oép của ḿnh một bài thơ trứ danh th́ hẳn đă kiểm soát (té ra là không ? Tôi cũng vậy ! Copier-Coller kinh thật ?) Tôi tự hỏi, tại sao có sự khác biệt này ? Thế là nổi hứng tán phét.
Tôi ṭ ṃ trở lại oép xem tôi đă nhặt văn bản kia từ đâu. Dĩ nhiện, cả trăm ngh́n references ! Trên mấy trang đầu, cứ như Truyện Kiều ấy, đă có 4 văn bản khác nhau, có văn bản c̣n thêm nguyên một khúc (sic) : văn bản của Phạm Ngọc Lân và 3 văn bản sau :
http://rosannadelpiano.perso.sfr.fr/Prevert.htm
http://lapoesiequejaime.net/prevert.htm
http://fle.blogcindario.com/2005/06/00068-les-feuilles-mortes.html
Kinh thật ! Qua đâu mà thế ? Có ca sĩ "sửa" trong một buổi tŕnh diễn ? Bản thân Prévert sửa nhân một dịp tái bản ? Chủ oép "phịa" ra chăng ?
Chịu thua.
Thôi, tán phét một tí trên một văn bản có thể sai nhưng không tồi cũng chẳng chết ai. Vẫn lư thú. Nhưng tôi sợ nàng thơ là phải lắm. Mỗi lần đụng tới nàng, tức khắc "ăn đ̣n", hè hè… Có lẽ từ nay tôi nên chạy mặt nàng.
PHĐ, 2011-02-27
Cảm nhận và dịch thơ ở từng người nó lạ lùng thế đấy. Có trời mới hiểu nổi.
*
T.B.
Phân vân quá, tôi vào Google t́m, và :
a/ t́m ra một văn bản viết tay của Prévert, thơ khúc đầu, đúng như Montand hát :
b/ nhưng cũng lại t́m ra :
http://www.annaraventos.com/docs/anthologie/Prevert/SoleilNuit/Feuilles.pdf
Click vào trên đây th́ thấy văn bản tôi đă dùng (nhưng nó có thêm một thơ khúc !)
Lại t́m thử xem nxb nào thế, th́ :
Nxb Arnaud Laster th́ c̣n nghi ngờ được, chứ nxb Gallimard th́ không đùa được…
Té ra những văn bản in sau (1980, …) được sự cộng tác của… vợ Prévert ! Tôi không nghĩ nàng nỡ "phịa" thơ thay chồng.
Không biết Prévert thích văn bản nào nhất ?
Cuối cùng, dường như câu chuyện thế này.
Tới năm 1945, Prévert đă có nhiều thơ rải rác khắp nơi : vài tập san văn chương, tác phẩm của bạn khi chàng tŕnh bày (đặc biệt trong hội hoạ, nhiếp ảnh), lời cho những bản nhạc, nhất là nhạc của Kosma, phim, "pḥng trà" (cabarets), kịch dùng đường phố làm sân khấu, v.v.
Nhiều nhà xuất bản xin đăng thành tập thơ đều bị chàng từ chối. Rồi chàng gặp René Bertelé, một giáo viên bỗng nổi hứng bỏ nghề xoay ra làm nhà xuất bản Éditions du Point du Jour. Tập thơ Paroles (Lời) chào đời năm 1946 ở đó. Ngay năm đầu đă bán 25 000 bản. Sau, bị khó khăn tài chính, Bertelé bán lại Point du Jour cho Gallimard. Từ ấy tới nay, Gallimard đă tái bản nhiều lần và bán 2 500 000 bản ! Paroles trở thành một trong tứ tài tử của văn chương Pháp trong thế kỷ 20 và Paroles là tập thơ được đọc nhiều nhất tại Pháp. Chưa tính đến chuyện mỗi năm, cho tới nay, lớp lớp học sinh học thơ Prévert… Trên thế giới đă có 600 ca sĩ danh tiếng hát bài Les feuilles mortes.
Văn bản được biết tới nhiều nhất là văn bản do Yves Montand hát. Nhưng không ít người dùng văn bản tôi đă dùng. Có lẽ, muốn biết có bao nhiêu văn bản khác nhau, cái nào ra đời lúc nào, ở đâu, phải t́m trong Prévert Toàn Tập, bộ sách Pléiade trứ danh của Gallimard.
ĐIÊN THẬT !!!
2011-02-28
Phổ lời
Nam Dao
Con ơi nhớ lấy lời
cha
Môt đêm đi phổ bằng ba năm làm
Theo truyền thống, lấy thơ phổ nhạc (Phạm Duy vốn vô địch). Nay, tôi lấy nhạc, phổ lời. Nói thế, ăn gian. Lời là thơ Prévert (les feuilles mortes). Và thơ chàng, hay bởi hồn nhiên, như hơi ta thở. Không luyến láy điệu đàng như thơ Mới Việt Nam ta (ôi, ngôn ngữ ta nhiều dấu [, ?, `, ~, . ] tạo ra nhạc rồi), và cũng chẳng jazz như thơ hiện (và hậu hiện) đại, chống lại vần điệu bằng…găy khúc, xuống hàng bất tử, không cần (tí ti) văn phạm, chửi tục, dâm dục… rất không gợi cảm, hè hè!
Tôi lấy hứng từ ông bạn già họ Phan rửng t́nh yêu thơ, và ông Hàn Thủy phổ lời Prévert cho nhạc Kosma. Phần này, tôi khoái 50%, phần 50% c̣n lại tôi không hẳn ưng v́ tính ‘’ lyrique’’ của ngôn từ văn chương Ziao Chỉ hơi bị ‘’ thiếu’’ hồn nhiên. Ôi, đây là một vấn đề văn hoá.
Riêng phần ḿnh, tôi vui chơi, thế thôi. Già rồi mà! Và ngâm nga một câu thơ Luân Hoán : "sao đêm chẳng cứ đêm dài, cho ta hưởng hết cái tài hoa ta’’.
Và lại hơi bị buồn v́ ta chẳng có cái tài hoa cóc ǵ mà bảo là của ta cả.
Than ôi!!! Trời sinh ra muôn loài sao lại chọn ta cà?
Ngàn lá chết
(đoạn 1)
Này,
em nhớ giùm...em nhé đừng quên Ngàn
chiếc lá vàng như bướm trong chiều bay
(đoạn 2)
Rồi
cơn gió bắc
(đoạn 3)
Bài ca
năm đó
(đoạn kết)
Rồi
đời chia cắt Và biển
sóng
lời 2 đoạn1
Này, em nhớ giùm...xin nhé,
đừng quên Ngàn chiếc lá vàng tơi tả
trong chiều bay
Nghe Nguyễn Trọng
Khôi phối âm và hát, |
Post scriptum chuyện phổ lời
Bây giờ cũng bắt chước Phan đại nhân xin tán phét về thơ. Thơ hay ở hồn thơ, và Prévert hay ở chỗ thật tự nhiên, lời thơ như lời thủ thỉ, gần gũi, không dramatique cải lương kiểu trăng rụng xuống cầu, không luyến láy du dương như các ngài Huy Cận Xuân Diệu thời thơ Mới đang nhập thơ Tây vào ngôn ngữ Ta. Tính hồn nhiên trong ngôn ngữ thơ Việt Nam ( thí dụ các cụ Tế Xương, N Khuyến) thoắt một cái thành ''nhaque'', và sau th́ ta cứ rong đường ''cách tân'', chỉ trừ 1 ngoại lệ là Nguyễn Nhược Pháp, với Hôm nay đi chùa Hương, thơ kể chuyện, rất hồn nhiên, và chính thế mà người ta c̣n nhớ. Nét hồn nhiên trong thơ Việt thỉnh thoảng thấy lóe lên ở Bùi Giáng, khi ông ta bất chấp chữ, làm thơ cho sướng cái đă. Hoặc Nguyễn Đức Sơn, cũng gần như thế, phá cách (nhưng giữ được chất, được hồn). Vậy, bài thơ của Prévert hay ở chỗ giữ được hồn, không du dương, không phức tạp (như bệnh các vị Phú Lăng Xa, trừ (có lẽ) Verlaine), và nếu có nhà thơ nào gần với Prévert th́ hẳn phải kể chàng Apollinaire mà tại hạ hợp tạng.
V́ thế, khi tại hạ phổ lời, là nhắm cái đích giữ được hồn thơ, và đồng thời, cố làm sao cho h́nh tṛn ra h́nh tṛn, h́nh vuông ra h́nh vuông, nhưng quả là thiên vạn nan thiên vạn nan (Hàn Thuỷ tiên sinh chứng giám) chứ chẳng là ḿ ăn liền.
ND