Cuộc độc thoại cần thiết

 

Cuộc độc thoại cần thiết

 

 

Gần bốn mươi năm sau Điện Biên Phủ, chiến tranh Đông Dương c̣n làm người Pháp nhức nhói. Mỹ có khoảng 50.000 người chết trong chiến tranh Việt Nam. Gần hai mươi năm sau, chiến tranh ấy vẫn ám ảnh xă hội Mỹ. Trong ngót nửa thế kỷ, có lẽ cả chục triệu người Việt Nam đă chết v́ hai cuộc chiến. Lại thêm một cuộc di cư và một cuộc di tản khổng lồ. Những vết thương ấy không dễ ǵ khép liền. Chuyện ấy đ̣i hỏi ở người Việt Nam ngày nay một ḷng nhân, một trí tuệ, một nghị lực phi thường. Chỉ có thế hệ này mới có thể thực hiện điều ấy. Không làm được, thế hệ sau sẽ quét sạch, coi năm mươi năm lịch sử đẫm máu kia như một tṛ hề của một lũ ngốc.

Dương Thu Hương ngồi tù, đột nhiên thấy Tiểu Thuyết Vô Đề xuất bản ở Mỹ ngoài ư muốn của ḿnh, phải viết bài Tự Bạch. Thụy Khuê không muốn mà vẫn phải cầm bút trả lời. Nhật Tiến lại viết bài, vừa tỏ lời quư trọng, thông cảm hai nhà văn, vừa "giải thích" v́ sao Dương Thu Hương c̣n có mặt thiên vị, hiểu sai Thụy Khuê. Đủ thấy một cuộc thảo luận giữa người Việt hôm nay khó đến thế nào. Tại sao hiểu nhau lại khó như vậy ? Không hẳn v́ thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, tuy hai điều ấy quan trọng. Có lẽ v́ nhu cầu hiểu nhau, một nhu cầu khá bất thường : trong cuộc sống, người ta gần người hợp t́nh hợp ư, xa người khác biệt ḿnh, thế thôi, mấy khi có nhu cầu hiểu người khác. Nhu cầu ấy, chỉ có chúng ta, những bèo bọt của cuộc chiến vừa qua mới có được. Dễ hiểu. Khó làm. Nó đ̣i hỏi một việc không dễ thực hiện.

Người bị ung thư có thể sống thêm vài năm tháng, nhưng đến chết cũng không thể quên căn bệnh của ḿnh. Sống đàng hoàng nhất là nh́n nhận nó, và xây dựng đoạn đời c̣n lại. Cuộc chiến vừa qua là ung thư trong tâm hồn những con người rơi rớt lại. Ta phải ôm lấy nó, quằn quại với nó, gạt bỏ khỏi đời ta những thành kiến, sai lầm, mù quáng, âu yếm giữ ǵn những t́nh cảm, giá trị ta vẫn thấy chân chính và, trên cơ sở đó, hướng về tương lai. Như thế, cuộc đời ta, quá khứ, hiện tại, tương lai, mới thống nhất, mới có ư nghĩa, có giá trị. Có nhân cách. Như thế, ta mới thoải mái gánh mọi sự mất mát, thua thiệt, đôi khi vô lư vô cùng. Như thế, ta chấp nhận thân phận của ta trong thời đại của ḿnh, đưa vai gánh nó. Như thế, ta hiểu ta trong thời cuộc. Không hiểu ḿnh, khó có khả năng hiểu người khác. Không hiểu nổi người khác, khó có khả năng hiểu chính ḿnh.

Dương Thu Hương sống và lớn lên trong chế độ xă hội chủ nghĩa. 18 tuổi, chị xung phong đi đánh Mỹ cứu nước. Người đàn bà đă cống hiến tuổi xuân của ḿnh cho lư tưởng, đă v́ nó tạm bỏ qua những điều chướng tai gai mắt chị chứng kiến dọc đường, lúc vào Sài G̣n, không hoa mắt v́ chiến thắng, v́ những đống hàng tiêu dùng, mà lặng người trước những quầy sách đầy tác phẩm bốn phương, kể cả tác phẩm của Marx. Rồi chị xả thân đấu tranh cải tiến xă hội, nói thẳng thừng, công khai, những điều nhiều người không dám nói, hoặc chỉ thổ lộ một cách quanh co. Và đi tù. Ở Việt Nam, người vào tù biết ngày vào, chẳng thể biết có ngày ra hay không. Thế mà tư thế, ng̣i bút của chị vẫn dơng dạc. Có lẽ v́ chị đă làm cái việc hiếm ai làm được : ôm những mảnh đời tan tác của ḿnh, gạt bỏ những ǵ đáng gạt, vun xới những ǵ c̣n lại để nuôi nấng tương lai. Ba quyển tiểu thuyết nổi tiếng của chị đều thể hiện chuyện ấy. Có thể v́ vậy tác phẩm của chị xúc động người cùng hoàn cảnh với chị. Nó là lời mời tiến hành cuộc độc thoại đau đớn, cần thiết, với đời ḿnh. Để ngửng mặt lên đường. Với người khác.

Có lẽ v́ vậy tác phẩm của chị làm nhiều độc giả Việt Nam ở hải ngoại bị xúc động. Nhưng sự tiếp đón ở đây phức tạp hơn. Có người hả hê đón nhận nó như bằng chứng hùng hồn rằng ḿnh đă hoàn toàn có lư. Họ sẽ hả hê có lư đến chết, bên lề ḍng lịch sử, sản phẩm của đồng loại. Có người rung động v́ thấy ḿnh đă không hoàn toàn sai. Đó là không kể có kẻ lưu manh muốn lạm dụng tên tuổi và tác phẩm của Dương Thu Hương.

Đă 17 năm ! Một thế hệ mới đă h́nh thành trong nước, một thế hệ không có lư tưởng, không tin bất cứ giá trị nhân bản nào. Nhà văn, người trí thức Việt Nam hôm nay, có ǵ để nói với họ về thế giới họ kế thừa, về cuộc đời họ phải gánh ? Nói với tư cách nào để có thể lọt tai họ ? Riêng về giới Việt Kiều ở Pháp và Mỹ, đủ các phía, có khi nghe chuyện hay đọc sách báo họ xuất bản mà phải sững sờ. C̣n có người, sống hơn 10 năm ở Mỹ, vẫn tưởng năm 1964 chính Bắc Việt đă tấn công Hạm đội 7 ! C̣n có người không hiểu nổi sự khác biệt giữa những vụ thanh trừng trong thời chiến và 750 quả bom Hiroshima trải lên quê hương, từ Nam chí Bắc. C̣n có người đinh ninh cải cách ruộng đất những năm 1953-1956 chủ yếu là đánh địa chủ phong kiến, và đánh Nhân văn – Giai phẩm, là chống âm mưu phản loạn của giai cấp tư sản ! Chúng ta sống ở hai nơi trên thế giới có khá nhiều tài liệu từ các bên, kể cả tài liệu mật. Thế mà lắm lúc ta chỉ hiểu những ǵ minh họa cho quá khứ khốn nạn của ta, khi ta c̣n đui chột. Thế mới thấy, thẩm định lại đời ḿnh khó khăn, đau đớn đến thế nào. Ôi, có thể ta không đủ sức làm chuyện Dương Thu Hương đă làm, trong hoàn cảnh của chị : nh́n thẳng những sự kiện, hiệu đính chúng, liên hệ chúng với những ǵ ta đă cảm, đă nghĩ, đă làm, đă sống, đă được, đă mất, khi ta chưa có điều kiện thấy hết, gạt bỏ, vun xới, chấp nhận lịch sử, chấp nhận thân phận ḿnh trong đó và, do đó, có đủ t́nh, đủ trí, đủ nghị lực để hiểu người khác đă phải gánh lịch sử trong hoàn cảnh khác ta và, nếu có thể, cùng họ sáng tạo tương lai.

Tương lai, tự nó là nói KHÔNG với hiện tại. Nói KHÔNG với hiện tại một cách nhân bản phải ôm vào ḷng cả đời ḿnh, cả quá khứ của dân tộc, của loài người, để cất bước.

Đối với người Việt hôm nay, về lịch sử vừa qua, có hai câu hỏi gốc.

1) Cuộc chiến vừa qua có mang tính chất ư thức hệ hay không ?

2) Cuộc chiến vừa qua có mang tính chất giải phóng dân tộc hay không.

Về vấn đề thứ nhất, có lẽ mọi người đều chấp nhận là có. Người cộng sản đă đành, họ không hề giấu quan điểm và mục đích cuối cùng của họ. Người theo kháng chiến cũng vậy, mấy ai chống sự lănh đạo của đảng ấy trong chiến tranh ? Về phía người quốc gia và những người đồng hành, cũng rơ ràng. Dĩ nhiên, tinh thần quốc gia, tự do, dân chủ, tự chúng không đủ để h́nh thành một hệ tư tưởng quán xuyến, nhưng chống cộng với bất cứ lư do nào cũng đủ, trong hoàn cảnh ấy, để đặt người chống cộng vào thế của một đối thủ trong cuộc chiến tranh ư thức hệ. Trong cả hai phía, hiện nay, vẫn có người nghĩ rằng cuộc tranh chấp ư thức hệ phải giải quyết và chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực. Họ sẽ chẳng bao giờ thảo luận với nhau. Điều đáng buồn cười, và đáng buồn, là số đông những người đó không phải ở trong Đảng cộng sản Việt Nam (C̣n mấy người thực sự tin tưởng vào những lư thuyết họ từng sùng bái ? Chỉ coi hành động cụ thể của họ cũng thấy) mà ở người Việt Nam di tản. Những người này có thể sẽ thắng một cách bất ngờ : những ǵ họ mong ước có thể sẽ được thực hiện, chỉ khác là chính guồng máy của Đảng cộng sản hôm nay sẽ thực hiện và thụ hưởng. Song ngày càng đông người, ở cả hai vị trí, chấp nhận rằng cuộc tranh chấp ấy có hại cho dân tộc hay, ít nhất, xử lư nó bằng bạo lực là điều nguy hại cho dân tộc.

Trả lời câu hỏi thứ hai phức tạp hơn, đau đớn hơn cho mọi người. Nhưng, mặt nào đó, đối với ai có đầy đủ thông tin, cũng dễ dàng hơn. Điều cốt yếu là phải phân biệt hai khía cạnh :

1) t́nh cảm của người nhập cuộc,

2) thực tế của sự kiện.

Về mặt t́nh cảm, nói chung, không một người Việt nào có quyền nghi ngờ ḷng yêu nước của người Việt khác. Về mặt thực tế của sự kiện, ta (những người sống ở hải ngoại) có tương đối đầy đủ tài liệu để xác định vai tṛ thực, ở mức độ thực, của Mỹ, Nga, Tầu, Đảng cộng sản Việt Nam, các chánh quyền liên tiếp ở Sài G̣n. Điều đó không khó. Khó nhất là ta dám nhận ta đă từng làm con rối tới mức nào. Ta chưa làm được điều đó, đương nhiên ta chưa dám hiểu chính ta trong thời cuộc đă qua, ta không có khả năng hiểu người khác và, không những ta không có ǵ đáng kể để nói với nhau, để nói với thế hệ sau, mà ta không có tư cách để nói bất cứ điều ǵ. C̣n lại : khả năng lải nhải tới chết những điều cũ rích, ngày càng ít người thèm nghe.

Trần Đạo

5-1992