Văn học là nhân học[1]. Con người, con người cá nhân, thân phận của con người, sự thật, con người và sự thật, sự thật của con người...
Đó là những đề tài trọng tâm trong một loạt bài lư luận văn học chuẩn bị đại hội 4 Hội nhà văn Việt Nam. Tiếp theo những ng̣i bút sáng tác, những ng̣i bút lư luận trở ḿnh.
Ta sảng khoái nghe nhà lư luận đ̣i văn học đối diện với cuộc sống... nh́n thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rơ sự thật[2]... không chỉ có nhiệm vụ phản ảnh hiện thật dù từ nhiều góc độ khác nhau... c̣n phải tham gia vào việc tạo ra môi trường đạo đức mới[3]... khẳng định sáng tạo là tự do... tự do sáng tạo là cốt lơi nhân cách của nhà văn... cách mạng và sáng tạo là quá tŕnh tự phủ định[4], tố cáo thói suy nghĩ muốn mọi con người phục tùng những chân lư trừu tượng, rập khuôn vĩnh cửu, bấp chấp quy luật, lẽ đời, càng bất chấp cá tính con người[5], kêu gọi nhà văn chấm dứt dùng con người làm phương tiện để tŕnh bầy lịch sử, đ̣i hỏi quan sát và khám phá về con người... mô tả con người... giúp con người trở thành con người xuyên qua nhận thức toàn bộ sự thật v́ con người là một điều bí ẩn... và con người với tất cả quan hệ của nó, thân phận và cuộc đời của nó chính là đối tượng và cũng là nội dung đặc trưng cơ bản nhất của văn học[6].
Lê Ngọc Trà[7] c̣n vạch rơ, mô tả con người đây không phải vấn đề miêu tả tâm lư nhân vật mà cơ bản là chủ nghĩa nhân văn, là quan niệm về con người, và khuyến khích sử dụng những phương pháp của thế kỷ chúng ta là thế kỷ tư duy phân tích trên con đường khổ ải của tài năng, của ư thức con người trong cuộc hành hương đi t́m tự do, chân lư và lẽ phải để h́nh thành nhân cách và cá nhân con người, củng cố ư thức về phẩm giá và tự do của mỗi con người sống trong xă hội. Như vậy, dưới ng̣i bút nhà văn nỗi đau riêng mới trở thành nỗi đau nhân loại... mỗi cuộc đời mới được so với vũ trụ và mỗi con người ra đi là cả một thế giới mất đi, không ǵ bù đắp nổi v́ con người là chủ thể của lịch sử, v́ hạnh phúc, tự do và sự phát triển của con người là cái đích của mọi cuộc cách mạng.
Nếu ta thấy những điều ấy đương nhiên, ta phải giật ḿnh : ở nước ta chúng không đương nhiên ; bản thân những bài đó là bằng chứng. Tại sao ? Tại sao có t́nh trạng phải đấu tranh cho những chuyện hiển nhiên đó ?
Nhà văn thật khó hiểu. Trong ngh́n kế sinh nhai sao lại chọn "nghề" quái dị này ? Mà có thể gọi nó là "nghề" chăng ? Sản phẩm của nó là ǵ ? ở đâu ? Quyển sách là sản phẩm của nhà in, ta có thể tính giá thành, giá bán, lời, lỗ ; ta có thể cầm trong tay, thấy nặng nhẹ ; ta có thể dùng nó để phục vụ một nhu cầu b́nh thường trong cuộc sống : nó có giá trị sử dụng, có giá trị trao đổi, nó là hàng hoá, sản phẩm của lao động sản xuất xă hội. C̣n (cái) núp trong sản phẩm kia, làm sao phát hiện, xác minh sự hiện thực của nó ? lấy đơn vị đo lường nào đo sự nặng nhẹ, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi ? Bí quá, ta chấp nhận : nó là sản phẩm tinh thần, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người. Và ta tôn trọng nhà văn như nhà nghiên cứu khoa học, những người hiến thân cho sự thật, cho con người, với sự dũng cảm của kẻ hành hương đi t́m tự do, chân lư và lẽ phải...
Nếu động cơ đó khiến nhà văn lao vào "nghề", tại sao có người biến thành công cụ minh họa, bồi bút, quan văn áp bức người khác ? V́ tha hoá ? Thật khó tin. Ở nước ta thiếu ǵ lănh vực dễ thành công và bổ béo hơn cho sự tha hoá, dại ǵ thí thân vào trận địa vô cùng ngột ngạt, nguy hiểm và tiền c̣m này ? Và sao đông thế ? Sự kiện này phải hiểu trên cơ sở : họ chân thành. Chính niềm tin vào sự thật đă dẫn dắt họ. Chính niềm tin của Đảng cộng sản Việt Nam vào sự thật là nguồn gốc của những chính sách văn hoá dẫn tới t́nh trạng hôm nay. Và biết đâu, chính niềm tin vào sự thật sẽ dồn những tác giả trên vào một sự bế tắc tương tự ?
Sự thật là ǵ ? Phương pháp nào cho phép phát hiện nó ? Làm sao chứng minh nó ? Và sự thật của con người ?
Như Lê Ngọc Trà nhận xét, thế kỷ này là thế kỷ của tư duy phân tích. Trong lối tư duy đó người ta xác định sự thật bằng một tiêu chuẩn : thực nghiệm. Một giả thuyết về một sự vật hay sự kiện được coi như đúng trong một hoàn cảnh cố định khi, áp dụng nó, ta tiên đoán được đích xác sự phát triển của sự vật hay sự kiện trong hoàn cảnh đó. Sự thật đó đ̣i hỏi một đối tượng, một hoàn cảnh rơ ràng, công cụ xem xét và đo lường, phượng pháp phân tích và quá tŕnh thể nghiệm. Con người quan sát, đo đếm, mô tả, và phân tích đối tượng đó trong hoàn cảnh đó, vạch ra bí ẩn của nó : quy luật phát triển của nó trong hoàn cảnh ấy. Thí dụ, ta quan sát con người từ nhiều góc độ, phân tích cơ cấu của nó bằng nhiều phương tiện kỹ thuật khác nhau, rút ra giả thuyết : bắn cho nó một phát súng ngay tim, nó sẽ gục, giẫy, và tắt thở. Thể nghiệm giả thuyết đó sẽ xác minh được một sự thật.
Loại sự thật này ai cũng có thể nh́n thẳng, không cần dũng cảm. Nói chung, mọi hiện thực khách quan trên đời, dù muốn dù không, con người đều phải nh́n, phải thấy, phải gánh. Hơn nữa, dù quan sát chúng từ 360 góc độ khác nhau, dù phân tích chúng sâu sắc đến đâu đi nữa cũng không thể nào tả và hiểu cho cạn. Cứ thử tả một khúc gỗ tới tận cơ cấu tế bào, hạt nhân th́ thấy.
Một vật vô tri vô giác đă vậy. C̣n con người, cái bí ẩn nấp sau khối xương thịt có thật chăng, là cái ǵ, dùng công cụ nào để quan sát, đơn vị đo lường nào để ước lượng, phương pháp nào để phân tích và quá tŕnh thể nghiệm nào để xác định đúng sai ? Trên cơ sở nào con người có quyền làm những việc ấy đối với người khác ? Trên cơ sở sự thật ? !
Đối với những câu hỏi ấy, qua lịch sử, có mấy cách trả lời cơ bản : tôn giáo, khoa học, văn học.
Với tôn giáo, con người là giá trị tuyệt đối v́ nó có sự thật, nó là sự thật, do Thượng Đế. Thượng Đế quá siêu, người thường không hiểu nổi. Trong khi chờ đợi ngày phán xét cuối cùng, thế gian cần những vị thánh, những thầy tu d́u dắt con chiên trên đường hành hương đi t́m chân lư. Trên cơ sở đó, một số vị tự thấy có nhiệm vụ, có quyền quan sát, đánh giá, lănh đạo người khác, và... thể nghiệm một con đường đi về chân lư.
Đối với một số nhà "khoa học" mácxít sự thật của con người ở ngay trong quá tŕnh h́nh thành, phát triển của loài người, trong lịch sử nhân loại. Lịch sử là sự thật của con người. Lịch sử không là một mớ ḅng bong rối loạn. Nó phát triển theo quy luật. Nắm được quy luật ấy th́ hiểu được xă hội, hiểu được từng người, hướng dẫn, điều khiển được loài người tới chỗ hoàn mỹ ngay trên trái đất này. Với niềm tin ấy, một số người tự thấy có nhiệm vụ, có quyền quan sát con người từ nhiều góc độ (thể xác, kinh tế, chính trị, xă hội, tư tưởng...) phân tích, tổng kết toàn diện, vạch ra đường lối khoa học, đúng đắn, kịp thời... để cải tạo, lănh đạo con chiên tới sự thật.
Lối suy luận đó về con người là nguồn gốc của tham vọng lănh đạo văn học nghệ thuật, uốn nắn sai lầm... Nó là cơ sở cho quan điểm, chính sách lư lịch trong quản lư xă hội. Đó là một loại khoa học gà ṇi. Đối tượng của nó là con người kinh tế – chính tri, phương pháp phân tích của nó là duy vật "biện chứng", công cụ đo lường của nó là lư lịch, phương tiện thực nghiệm của nó là bạo lực. Những cuộc thể nghiệm lớn nhất, triệt để nhất do Staline, Mao, Pol Pot, Ceaucescu... tiến hành.
Những người ấy đă từng thành công, đă từng nếm thuở vàng son, không phải chuyện t́nh cờ. Lối suy luận đó có phần đúng : con người muốn sống phải ăn, muốn ăn phải sản xuất, sản xuất phát triển phải có phân công, trao đổi, có quan hệ sản xuất, có giai cấp v.v. Nó đúng với một khía cạnh của con người : con người lệ thuộc thiên nhiên, con người lệ thuộc con người. Trong phạm vi đó, có một loại quy luật theo số đông mà bất cứ chế độ, bất cứ chính trị gia nào cũng biết vận dụng. Tuy vậy những kiến thức ấy chưa bao giờ dẹp được những khủng hoảng cơ bản trong lịch sử. Bởi v́, nếu con người chỉ là vậy, bản thân những quy luật ấy vô nghĩa : muốn có khái niệm quy luật, ít nhất, mặt nào đó, cũng phải nằm ngoài ṿng kiềm chế của quy luật. V́ vậy sự "thành công" kia chỉ tạm thời và phải có ngày suy sụp.
Dĩ nhiên, những tác giả trên không là tín đồ môn khoa học gà ṇi. Tuy vậy, dùng những từ mang và truyền bá những khái niệm ấy lẫn lộn với một số khái niệm đối kháng thật đáng ngại. Nếu ta suy luận, tranh luận, đối thoại trong lồng những khái niệm ấy, khả năng dậm chân không nhỏ. Phê b́nh và lư luận văn học khó ḷng đổi mới nếu không đổi mới cách đặt vấn đề, khái niệm, ngôn từ.
Mô tả hiện thực là chuyện không ai, không bao giờ, làm trọn được. Nh́n thẳng hiện thực từ nhiều góc độ khác nhau, phân tích nó để khám phá bí ẩn của nó chẳng thể cho ta gặp sự thật của con người. Đó là công việc của nhà khoa học, nhà báo, quan toà, không phải công việc của nhà văn.
Vấn đề ở đây không là nh́n hay không nh́n (không nh́n cũng là một cách nh́n rồi), hoặc nh́n dưới góc độ nào, mà là nh́n với thái độ nào : tŕu mến, thương xót, phẫn nộ, lạnh lùng, khinh bỉ, căm hận... Thái độ đó là một sáng tác tuyệt đối, bất chấp mọi quy luật, nó là tự do, là con người. Nó không có sự thật v́ nó là nền tảng của mọi sự thật. Nói đúng hơn, con người vô giá v́ nó là nền tảng của mọi giá trị trên đời. Chính đôi mắt ta tạo sự ghê tởm của hành động kia, chính đôi mắt ta tạo vẻ đẹp mê hồn của người đàn bà nọ. Sự sáng tạo đó, v́ nó là người, không có quy luật hay sức mạnh nào dập tắt được, trừ khi giết nó. V́ vậy, mọi quyền lực độc tài, tôn giáo cũng như lịch sử,... đều sợ hăi một t́nh cảm hồn nhiên như t́nh yêu. V́ vậy, viết văn là khẳng định chủ nghĩa nhân văn, quan niệm về con người, là tham gia vào việc tạo ra môi trường đạo đức mới, v́ sáng tạo là tự do, tự do sáng tạo là cốt lơi nhân cách của nhà văn.
Sự thật đau nhất của con người là nó không có sự thật, không là sự thật. Không có chân lư nào, dù tiềm tàng hay ẩn nấp, đằng sau tim sọ của nó. Tâm hồn nó trong veo, trong suốt, trong tới mức khả nghi. Tâm hồn ấy lại không thể tiếp cận bất cứ một hiện thực nào mà không đồng thời sáng tạo một h́nh thù, mầu sắc, âm hưởng, cảm giác, không sáng tạo hay tái tạo cả một thế giới giá trị, khiến hiện thực kia đượm nhân t́nh. Nh́n một người ăn mày hay ngoảnh mặt đi đă là lựa chọn, sáng tạo một bộ mặt của nhân loại, của thế giới. Có thế mỗi cuộc đời mới được so với vũ trụ và mỗi con người ra đi là cả một thế giới mất đi, không ǵ bù đắp nổi. Tâm hồn ấy chính (là) tự do. Con người chỉ có thể đi t́m tự do v́ chính nó (là) tự do. Trong trời đất, ngoài nó ra, không có ǵ tự do. Và con người phải đi t́m tự do v́ tự do (là) sáng tạo. Văn học là nhân học trong nghĩa đó : thân phận con người là phải t́m con người, phải t́m chính ḿnh. Nó càng phải t́m chính nó khi nó "mất" tự do, khi nó bị áp bức. Chỉ có nó mới có thể bị áp bức, bóc lột. Không ai bóc lột cỏ cây, gia súc. Không ai áp bức sỏi đá. Con người chỉ có thể áp bức con người v́ chỉ có con người mới có một cái ǵ cho người khác áp bức : tự do.
Đă (là) tự do, con người trách nhiệm tất cả : thấy hay không thấy người ăn mày bên hè phố, thấy hay không thấy bức tường Berlin sụp đổ... Con người không phản ánh hiện thực như một mắt kính. Phản ánh hiện thực vừa là tiếp cận nó, vừa là phản nó, không cho nó được phép chỉ là nó, tiếp tục là nó, buộc nó đượm ánh mắt của ta. Ánh mắt đó là nhân t́nh của vũ trụ. Dẹp nó đi chỉ c̣n ngổn ngang một đống vật chất rụng rời. Cách mạng và sáng tạo là quá tŕnh tự phủ định chính v́ chúng là hành động của con người và con người, ngoài khả năng tự phủ định ấy, chỉ là một khối thịt bọc một mớ xương. Khả năng tự phủ định có ư thức ấy c̣n gọi là... tự do.
Những người lao ḿnh vào một cuộc chiến đấu hầu như vô vọng cách đây năm, sáu chục năm hẳn yêu tự do, giàu ḷng nhân ái, dũng cảm, có đủ trí tuệ để tiếp thu những hiểu biết cần thiết về thời đại, để chiến đấu và chiến thắng. V́ sao họ biến thành tín đồ môn khoa học gà ṇi ? V́ danh vọng, quyền lực ? Tất nhiên không thể coi thường những tham vọng ấy. Nhưng xưa nay vẫn vậy mà chẳng mấy khi dẫn tới ảo vọng uốn nắn t́nh cảm, lư trí của con người, coi dân tộc như lũ trẻ ngây ngô cần được che chở, bảo vệ, cần phải trường kỳ giáo dục, cải tạo... Cuồng vọng ấy chỉ có thể xuất phát từ một khát vọng cơ bản, thiết thân hơn cả danh vọng, quyền lực, khát vọng đă khiến họ bất chấp mọi quyền lực lao vào cách mạng : nhân cách ! khát vọng làm người, làm chính ḿnh.
Con người phải t́m chính ḿnh, nhưng t́m ở đâu ?
Một vở bi hài kịch. Con người là nền tảng của mọi sự thật, thế mà bản thân nó không có sự thật, không là sự thật. Nó phủ cả vũ trụ với nhân tính, nó sáng tạo mọi giá trị trên đời, nhưng, một ḿnh, nó không tự tạo nhân cách và giá trị được : nó là một sự thiếu hụt trường kỳ, vĩnh viễn. Nói như Marx : nó là toàn bộ những quan hệ xă hội của nó, hay như Sartre : un homme fait de tous les hommes[8] cũng vậy : nhân cách của nó không chỉ tùy thuộc nó, nhân cách của nó c̣n tùy thuộc người khác và người khác, cũng như nó, khủng khiếp thay, (là)... tự do. Tuy nó là nó mà nó cứ phải chạy theo nó xuyên qua ḷng người khác để trở thành nó. Bộ mặt thật của nó do bàn tay ai đâu khắc đẽo. Nói như nhà văn nọ, con đường dẫn ta tới ta đi qua ḷng em. Chuyện giúp con người trở thành con người có thật, không kém chuyện ép con người trở thành con vật : con người là kết quả của một cuộc sáng tạo không ngừng của chính nó và của đồng loại. Do đó, có chuyện đi t́m tự do, chân lư của chính ḿnh, có chuyện nhân học. Con người phải và chỉ có thể t́m chính ḿnh ở đồng loại. Chính v́ nỗi đau của nhân loại xâm phạm nhân cách của ta, là nỗi đau của chính ta, mà nỗi đau riêng có thể trở thành nỗi đau nhân loại.
Ở đây có câu hỏi hóc búa. V́ sao con người, ngay trong lúc xử sự với nhau như thú, vẫn phải thấy người khác là người, như ḿnh, nghĩa là, xét về mặt nhân tính, ngang hàng với ḿnh, bằng ḿnh, là ḿnh. Vấn đề triết học cơ bản này, cho tới nay, chưa có giải đáp lôgíc thoả đáng. Trần Đức Thảo là nhà triết học Việt Nam duy nhất t́m hiểu vấn đề này trong La formation de l'homme và Recherches dialectiques[9].
Tóm lại, tự do, nhân cách, bản chất của con người, là một quan hệ giữa người với người. Nó là ta xuyên qua người khác. Ta không tự do đối với cỏ cây, thời tiết. Ta tự do đối với đồng loại, xuyên qua đồng loại. Không ai thích làm vua gà vua vịt[10], v́ vậy.
Hoàn cảnh éo le đó khiến khát vọng lớn nhất của con người chính là con người và sự đe dọa lớn nhất đối với con người cũng là con người. Không có đôi mắt nào đục hơn đôi mắt người yêu. Chúng chỉ chớp một cái, hạnh phúc của ta có thể tan tành. Nhưng ta cũng chỉ yêu chúng khi chúng c̣n khả năng chớp và, hăi hùng hơn, c̣n khả năng liếc người khác. Chúng cứ trong suốt, bất biến như pha lê, ta nh́n vài lần ắt chán. Khoa học và nhân học khác nhau ở điểm cơ bản ấy. Nhà khoa học t́m hiểu những quy luật điều hành sự vận động của thế giới tự nhiên. Nhà văn đeo đuổi mục đích khác : tái tạo và sáng tạo nhân giới. Có nhà bác học phi nhân, vô liêm sỉ. Có đại văn hào mù tịt về khoa học. Dùng kiến thức khoa học để phân tích, t́m hiểu, giải thích, đánh giá nghệ thuật, văn chương là chuyện phi lư. Những môn xă hội học, chủng tộc học, kinh tế học, lịch sử... có thể giúp ta hiểu một số khía cạnh phi nghệ thuật, phi nhân văn của tác phẩm. Chúng chẳng bao giờ giúp ta cảm vẻ đẹp, t́nh tứ của tác phẩm v́ chúng xem xét và phân tích khía cạnh lệ thuộc của con người. Lư luận trong hướng đó, vô t́nh ? ta áp dụng một quan điểm máy móc trong học thuyết của Marx : phải xem xét quá tŕnh phát triển của nhân loại như một hiện tượng tự nhiên, độc lập với ư chí của con người. Điều này không lạ : nhiều môn phái "khoa học" nhân văn tây âu hiện nay, ít nhiều, dựa trên tiền đề ấy. Điều này lạ khi nó xuất phát từ một người mácxít : quên một quan điểm ngược lại của Marx. Nhưng, trong vấn đề này, tư tưởng của Marx nhập nhằng. Có lẽ v́, cho tới nay, khoa học chưa trả lời được ước mơ của Gerald Edelman[11] : si nous ne parvenons pas à comprendre comment l'esprit se fonde sur la matière, il subsistera toujours un immense abime entre nos connaissances scientifiques et notre connaissance de nous-mêmes. Il n'est pas impossible de jeter un pont au-dessus de cet abime[12]. Như Marx nhận xét, ngày khoa học giải thích được vấn đề này là ngày triết học cáo chung.
V́ nhân cách của con người tùy thuộc đồng loại, v́ nó h́nh thành xuyên qua nhân cách của đồng loại nên có cuồng vọng kiểm soát, lănh đạo, uốn nắn tư tưởng và t́nh cảm của con người. V́ con người tư duy bằng ngôn ngữ nên chuyện đầu tiên thường được thực hiện là tước đoạt ngôn ngữ, tước đoạt tự do ngôn luận, buộc con người suy nghĩ qua một ngôn ngữ cố định với ảo vọng ngôn ngữ ấy tạo nghĩa, khơi t́nh một cách tự nhiên như cây đâm cành cho trăm hoa đua nở ca ngợi một Sự Thật đă được Quy luật Lịch sử vinh viễn xác định. Ngôn ngữ gỗ giống ngôn ngữ tụng kinh ở mặt đó. Khốn thay, nếu việc đó thành, mục đích ắt tiêu vong : mất con người tự do, con người sáng tạo, nhân cách của ta cũng chẳng c̣n. C̣n lại một động vật lang thang giữa hoang vu, với một rừng máy.
Ta phải t́m nhân cách của ta ở đồng loại, nhưng t́m bằng cách nào ? Bằng hành động. Qua hành động con người hoà nhập thiên nhiên và loài người v́ hành động của con người luôn luôn h́nh thành và khai triển trong ḷng hành động của đồng loại. Một mặt nó thể hiện toàn diện một cá nhân trước thời đại, mặt khác, kết quả thực của nó, và do đó, ư nghĩa thật của nó thể hiện cả nhân loại. Kết quả đó, ư nghĩa đó là gia tài mà ta, cùng đồng loại, gánh từ quá khứ của nhân loại trao lại tương lai. Viết văn là hành động tác động vào ngôn ngữ, môi trường chung, phương tiện chung và h́nh thái tồn tại sinh động cơ bản nhất của lư trí, tư duy, t́nh cảm của loài người. V́ ngôn ngữ là con người, tồn tại và tái sinh qua con người, là của riêng ta và của tất cả, là ta và là đồng loại. Viết văn là một cách ứng xử, một cách sống, một cách làm người trong nghĩa đó.
Một con người liếc mắt nh́n đời là đă có một thế giới mới, một nhân loại mới đang h́nh thành. Một con người hạ bút hành văn cũng vậy. Do đó con người càng bớt lệ thuộc thiên nhiên càng cần học yêu tự do của người khác, càng cần nhân văn. Xin chúc lớp người sẽ chôn chúng ta : thế kỷ tới sẽ là thế kỷ của tự do, của sáng tạo, của t́nh người. Xin chúc em măi măi giữ cặp mắt bất ngờ, điều kiện tối thiểu của t́nh yêu, của hạnh phúc.
Trần Đạo
1989
[1] Maxime Gorki.
[2] Trần Hữu Tá, Về vấn đề định hướng của văn học trong t́nh h́nh hiện nay, Sài G̣n Giải Phóng, 09.07.89.
[3] Nguyên Ngọc, Hiện thực đang thôi thúc người cầm bút, Thanh Niên, 18.06.89.
[4] Ngô Minh, Tự do sáng tạo và nhân cách nhà văn, Thanh Niên, 09.07.89.
[5] Dương Thu Hương, Tṛ chuyện với Dương Thu Hương về Những thiên đường mù : những thiên đường và những nỗi đau. Thảo Đăng, Tuổi trẻ chủ nhật, 23.04.89.
[6] Vấn đề con người trong văn học, Sài G̣n Giải phóng, 02.07.89.
[7] Vấn đề con người trong văn học, Sài G̣n Giải phóng, 02.07.89.
[8] một con người cấu tạo bằng toàn bộ nhân loại. J.P. Sartre, Les Mots.
[9] Quá tŕnh h́nh thành con người và Nghiên cứu lư luận biện chứng. Trần Đức Thảo.
[10] Nguyễn Huy Thiệp
[11] Nobel sinh học và y học, 1972.
[12] Nếu chúng ta không hiểu nổi cơ sở vật chất của tư duy, măi măi sẽ c̣n một vực thẳm mênh mông giữa kiến thức khoa học của chúng ta và sự hiểu biết của chúng ta về bản thân chúng ta. Bắc một nhịp cầu qua vực thẳm ấy không phải chuyện không thể làm được. Biologie de la conscience, Odile Jacob, trang 277