Trí thức, kẻ bất lực của muôn đời

 

Trí thức, kẻ bất lực của muôn đời

 

 

Mao Trạch Đông có một câu khó ngửi về trí thức. Vậy mà không ít trí thức trên đời, không phải hạng xoàng, ngửi được. Không có ǵ đáng ngạc nhiên. Ông có lư, trí thức thường là kẻ bất lực. Khổng Minh nhường thiên thời cho Tào Tháo, địa lợi cho Tôn Quyền, chỉ dựa vào nhân hoà mà dựng nhà Hậu Hán, thật là người trí thức phi thường. Nhưng cũng phải thở dài, gục xuống Kỳ Sơn. Thật là kẻ bất lực trước thời thế. Nguyễn Trăi chủ trương đánh vào ḷng người hơn đánh thành, giúp Lê Lợi đánh bạt quân Minh, tuyệt vời không kém Khổng Minh. Rồi cũng bị loại : thế giới phong kiến không có đất sống cho loại người như vậy, loại người biến mệnh trời thành ḷng dân. Tại sao kỳ lạ thế ?

Những từ trí thức, giới trí thức (intelligentsia), trong nghĩa hiện nay của chúng, ít nhất trong văn hoá Pháp, không có từ muôn đời. Nó manh nha ở Pháp từ thế kỷ 17, h́nh thành trong thế kỷ 18, trở thành khái niệm trong thế kỷ 19, thịnh vượng trong thế kỷ 20, suy tàn (?) cuối thế kỷ 20. Không ở đâu, người trí thức có vai tṛ quan trọng trong đời sống xă hội như ở Pháp. Thí dụ, Hiến pháp đầu tiên của Pháp, thậm chí Hiến pháp của Mỹ, không thể có được nếu không có trào lưu văn học và tư tưởng của Pháp trong thế kỷ 18. Hiến pháp là một vấn đề văn hoá trước khi trở thành vấn đề chính trị hay luật pháp. Vậy cũng nên t́m hiểu quá tŕnh h́nh thành khái niệm trí thức ở Pháp.

Khi nói tới trí thức người ta dễ liên tưởng tới sự hiểu biết, tới khả năng t́m sự thật, tới khoa học. Người ta thường cho rằng tư tưởng hiện đại, tư tưởng khoa học, bắt đầu với hệ luận của Descartes. Tới mức từ cartésien đồng nghĩa với có lư như 2+2=4. Xem kỹ lại, hệ luận ấy bắt đâu bằng một nghi vấn và một sự khẳng định : cho rằng ta chấp nhận ta nghi hoặc tất cả, ta không thể nghi ngờ rằng ta đang nghi hoặc, vậy, ta đă nghi hoặc th́ ta có thật. Dĩ nhiên, luận điểm ấy không đủ để chứng minh ta có thật hay không có thật, nhiều trường phái khác, cùng thời và sau này, đă chứng minh ngược lại. Điều quư ở đây không ở sự chứng minh, nó ở hai ư khác. Một mặt, nó ở một lối suy luận có phương pháp, giúp con người tránh thành kiến, tránh mâu thuẫn (trong nghĩa thông thường). Mặt khác, nó ở sự khẳng định triết học : thật hay không thật, một khi ta đă chấp nhận làm người, th́ nguồn gốc mọi sự thật, mọi giá trị đều từ ta. Câu je pense, donc je suis[1] đẹp ở tính chất thơ của nó, và do đó cứ khắc măi vào ḷng người. Sartre đă biến nó thành Je pense, donc je ne suis pas[2] và, v́ như thế nhân bản hơn, đă chinh phục nhiều người. Trong thời Descartes, từ trí thức chưa xuất hiện. Nhưng những trí giả đều quư trọng ông.

Trong thế kỷ 18, Voltaire, một nhà văn nghộ nghĩnh, đưa đầu ra đối địch với triều đ́nh để bảo vệ Callas. Với tư cách ǵ ông can thiệp vào vụ này ? Chính trường và luật lệ nào phải lănh vực chuyên môn của ông ?

Trong thế kỷ 19, Émile Zola lại đưa đầu ra can thiệp vào vụ án Dreyfus, viết bài văn nổi tiếng J'accuse[3]. Với tư cách nào ? Với tư cách một nhà văn đứng lên bảo vệ sự thật và lẽ phải. Nhiều người trí thức cũng hưởng ứng. Từ trí thức, trong nghĩa ngày nay của nó, có từ đó.

Trong thế kỷ 20, nhiều nhà bác học, nhà khoa học, nhà văn, nghệ sĩ, đă đưa đầu ra đấu tranh cho đủ mọi chuyện không liên quan tới chuyên môn của họ. Quần chúng thường xem họ là người trí thức và quư mến họ, không phải v́ họ có một tri thức đặc biệt về vấn đề được tranh luận, mà v́ quần chúng tin rằng, do tri thức của họ, họ là những người tôn trọng, quư trọng sự thật. Như thế, trí thức là người lăn xả vào một lănh vực thường không thuộc chuyên môn của ḿnh để bảo vệ một sự thật nào đó.

T́m sự thật, tôn trọng sự thật. Sự thật nào ? Có thể có sự thật không ? Ở đây có sự nhập nhằng. Sự thật về sự vật, sự kiện, nếu có thể có, cũng khác xa sự thật của con người. Điều đó ai cũng cảm nhận dễ dàng. Không ai tin rằng dùng một công thức toán có thễ chứng minh một tín ngưỡng, một giá trị đạo đức, kể cả giá trị tôn trọng sự thật. Như thế làm sao có thể tin một người trong một vấn đề không thuộc lănh vực chuyên môn của nó ? Có lẽ v́ sự nhập nhằng kia có cơ sở. Quan điểm của Descartes (tuy ông đă rút ra kết luận ngược lại) có thể hiểu : trên đời này không có một sự thật nào độc lập với người quan sát, t́m kiếm nó, nhưng người ta có thể dựa vào phương pháp suy luận để tránh thành kiến. Quan điểm ấy vẫn c̣n phù hợp với khoa học ngày nay. Như thế, người ta có thể quư mến người trí thức ở tính chất tự do suy luận (libre penseur) của người đi t́m sự thật, và trên cơ sở đó, tin cậy phần nào khả năng suy luận không thành kiến của họ : ngay trong lúc quan sát thiên nhiên vẫn phải đặt câu hỏi đối với chính ḿnh. Đó là đối với sự thật về sự vật, sự kiện. Vấn đề sự thật của con người rắc rối hơn. Không những nó không thể độc lập với người quan sát, nó c̣n không thể có được nếu không có sự hiện diện và sự ưng thuận của người khác. Robinson, một ḿnh trên đảo hoang, không thể có một sự thật hay một giá trị nhân bản nào. Chỉ khi Vendredi xuất hiện, vấn đề sự thật, vấn đề giá trị mới có thể đặt ra. Khi người trí thức lao ḿnh bảo vệ một sự thật về một vấn đề nào đó, họ làm một lúc hai chuyện :

1) Vận dụng phương pháp suy luận khoa học ḿnh vốn có để xem xét một cách đầy đủ và khách quan nhất những sự vật, sự kiện, những quá tŕnh diễn biến của chúng.

2) Kêu gọi sự ưng thuận của người khác để cùng nhau tái tạo hay sáng tạo một sự thật, hay nói đúng hơn, một giá trị của con người trong một thời đại, ít nhất là giá trị tôn trọng sự thực về sự vật, sự kiện.

Người trí thức là người muốn tin tưởng ở tự do của con người (mặc dù hạn chế của nó), muốn dựa vào con người, để cùng nhau tái tạo hay sáng tạo những giá trị nhân bản của thời đại ḿnh, để bảo vệ, để xây dựng một thế giới tinh thần, một tương lai vượt những quy luật vật chất của cuộc sống. Tính cách trí thức không tùy thuộc mức tri thức trong bất kể lănh vực chuyên môn nào. Nó nở ra như một ảo vọng trong một thực tế nghiệt ngă. Nó khẳng định : nhân cách cần thiết cho cuộc sống. Nó tin tưởng : nhân cách là có thể, ngay hôm nay, ngay bây giờ. Ở khía cạnh ấy, có thể coi người trí thức như một nhà thơ có học, một nhà thơ nghiệp dư, chưa biết gieo vần, cấy vận. Người trí thức chỉ có thể h́nh thành và tồn tại trên cơ sở tự do của người khác. Do đó, xưa nay, nó thường là kẻ bất lực. V́ con người chưa quen sống (và đối với 3/4 nhân loại hôm nay, trong đó có Việt Nam, chưa đủ khả năng sống một cách đàng hoàng, b́nh đẳng) với tự do của người khác. Ta chỉ coi những t́nh cảm biết mấy quan trọng, biết mấy nhỏ nhoi trong cuộc sống hàng ngày của ta cũng rơ. Ta có thể yêu măi măi một người đă chấp nhận măi măi là của ta hay không ? Ta dám yêu măi măi một người mà ta biết, sáng mai, có thể yêu người khác ? Thực tế, dù muốn dù không, như mọi người, hai chuyện ấy ta đều làm được. Ngược lại, trong nhiều lănh vực, đặc biệt những lănh vực lịch sử, chính trị, văn hoá, tư tưởng, lắm lúc ta rất e dè. V́ ta sợ hăi chính ḿnh ? Hay nói cách khác, ta chưa dám tin người khác ? Trong thế giới hôm nay, làm sao tin được ? Nhưng nếu ta không dám tin, không dám yêu tự do của người khác, thế giới hôm nay c̣n ǵ đáng sống ? Ån, ngủ, đụ, ỉa và ... hư vô. Đă sống, phải thèm ăn, thèm ngủ, thèm đụ, thèm ỉa. V́ những điều ấy không thể thực hiện được một cách nhân đạo trong sự cô lập, trong luật rừng, phải từ chối hư vô, phải yêu đời, tức là phải quư tự do của người khác, và trả cái giá phải trả : hôm nay. Dù là một hôm nay bất lực. Người trí thức là người phải và dám đánh cuộc vào tự do của người khác. V́ thế, các chế độ độc tài vừa muốn khai thác tri thức của nó vừa muốn bóp chết trí tuệ, nhân cách tự do của nó. Đó là điều không thể thực hiện được một cách triệt để, v́ hai khía cạnh đó trong con người, như Descartes đă linh cảm, không hoàn toàn độc lập với nhau.

Trần Đạo

7-1992

 



[1] ta tư duy, vậy ta có thực. Descartes.

[2] Ta tư duy, vậy ta không có thực.

[3] Tôi lên án.